Sự thánh thiện trong đời sống của Đấng Sáng lập

Tôi muốn chiêm ngắm sự thánh thiện của Cha tôi theo năm dấu hiệu mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập trong Tông huấn Gaudete et Exsultate và gọi đó là “năm cách diễn tả hùng hồn về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân”.


Những gì tôi biết về Đấng Sáng lập Dòng chỉ vọn vẹn trong những trang lược sử đơn sơ của Hội dòng do các chị cao niên đã ghi chép và sưu tầm. Cùng với những trang sử đơn sơ ấy là những câu chuyện được các chị kể lại từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và tôi- một đứa con hậu thế chỉ có thể hình dung về Cha qua những tấm hình cũ và những dòng sử đã khô mực từ lâu. Tôi đã từng ước gì Hội dòng có được những bút tích của Cha nhiều hơn nữa để những tự hào về Cha có cơ sở, có chứng từ hùng hồn như bao Hội dòng khác có về Đấng Sáng lập của họ. Nhưng qua năm tháng sống trong dòng chảy ân sủng mà Cha để lại, hình ảnh Cha ngày càng hiện lên rõ nét trong lòng tôi. Tôi rất tự hào và hãnh diện về Cha, sẵn sàng kể chuyện cho mọi người về Cha - một con người đã sống như mọi người nhưng lại toát lên một vẻ đẹp thánh thiện lạ lùng.

Lời mời nên thánh không dành riêng cho bất kỳ ai nhưng là cho mọi người. Điều đó đã được khẳng định trong Kinh Thánh và được nhắc lại trong Công đồng Vatican II. Tuy nhiên, người giáo dân vẫn cảm thấy sự thánh thiện dường như là một khái niệm xa xỉ đối với họ cho đến khi đọc Tông huấn Gaudete et Exsultate (GE) của Đức Thánh Cha Phanxicô bàn về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay. Mỗi người sẽ tìm thấy và phải tìm thấy nẻo đường nên thánh của mình ngay trong chính cuộc sống thường nhật của mình. Tôi muốn chiêm ngắm sự thánh thiện của Cha tôi theo năm dấu hiệu mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập trong Tông huấn và gọi đó là “năm cách diễn tả hùng hồn về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân”. Những dấu hiệu thánh thiện này không xa vời nhưng không tầm thường. Đó chính là lòng kiên trì, nhẫn nại và hiền hòa; niềm vui và sự hài hước; lòng dũng cảm và say mê, trong cộng đoàn và trong cầu nguyện. Cuộc đời của Cha đã thể hiện tất cả các vẻ đẹp ấy.

Cha tôi- con người kiên trì, nhẫn nại và hiền hòa

Những đức tính này của Cha được xây dựng vững chắc trên niềm tin tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Những lời sau đây trích từ chương IV của Tông huấn hoàn toàn đúng khi đối chiếu với con người đầy sức mạnh nội tâm của Cha: “…sự thánh thiện xuyên qua sự nhẫn nại và kiên tâm làm việc thiện. Đó là một dấu hiệu của sự trung tín phát xuất từ tình yêu, vì những ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa thì cũng có thể trung thành với người khác. Họ không bỏ rơi người khác khi khốn khó, họ đồng hành với anh chị em mình khi lo âu và túng quẫn…”. Cha đã đến sống cùng và sống với người nghèo của một miền đất xa xôi. Đời sống lạc hậu của người dân An Nam ở thế kỷ XIX thật khác xa với nền văn minh của nước Pháp. Nhưng Cha đã chọn và không bao giờ thay đổi. Cha đã kiên trì chọn ở lại với đoàn chiên trong bắt bớ cấm cách, dù được khuyên trở về nơi an toàn để trú ẩn. Cha được mọi người biết đến là một vị mục tử khiêm tốn hiền lành, ôn hòa với mọi người. Cửa nhà của Cha luôn rộng mở không phân biệt sang hèn. Cha tận tụy giúp đỡ không phân biệt lương giáo. Cha được cả chính quyền Pháp lẫn Việt kính trọng nên tạo dược bầu khí yên bình cho giáo phận trong thời gian Cha làm Giám mục. Cha được Tòa Thánh và chính quyền hai bên trao tặng các huân chương cao quý. Những huân chương đó chắc chắn không làm Cha vui hơn hay có cái để tự hào nhưng đó là chứng cứ cho thấy Cha là con người yêu chuộng hòa bình và nỗ lực xây dựng hòa bình.

Cha tôi- con người của niềm vui và sự hài hước

Cha có biệt danh là vị “Giám mục mỉm cười”. Người không có đạo thì gọi cha là “Ông tiên bên đạo”. Tôi không thể hình dung hết sự thánh thiện của Cha đã lan tỏa niềm vui và sự bình an cho người khác lớn biết chừng nào. Lược sử ghi lại rằng Cha không bao giờ để cho mình bị đè nặng bởi những lo âu thái quá. Người hiền đệ thân cận nhất của Cha là Đức Cha Chabanon thì làm chứng rằng: “khi Đức Cha Lý có điều gì ưu tư nặng lòng thì Ngài hát lên”. Cha đã sống thế nào để vị quan toàn quyền Pháp phải thốt lên trong bài diễn văn trong dịp trao huy chương cho Cha rằng: “…ngài mang những đức tính ấy với một lòng quả cảm không bao giờ tắt nụ cười trên môi với lòng nhiệt thành đến độ hăng say, với một sự lạc quan thổi vào những ngọn lửa đang chập chờn”. Vẫn thường thấy trong xã hội sự phân tầng tư tưởng: nếu ai đó được lòng dân, được lòng những người vô danh thì bị những người hữu danh lờ đi hoặc ghét bỏ. Có những người khác lại được những người có chức quyền công nhận nhưng không được lòng dân. Những con người được mọi tầng lớp trong xã hội công nhận và yêu mến ngay khi còn sống thật hiếm hoi. Và Cha tôi là một trong những con người hiếm hoi ấy. Cha đã sống như châm ngôn giám mục mà Cha đã chọn: “Tôi yêu mến mọi người”.

Cha tôi- con người của lòng dũng cảm và say mê

Cha là một người trẻ can đảm khi dám chọn lựa ơn gọi linh mục, can đảm khi dám thay đổi từ chủng viện Giáo phận sang chủng viện của Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Một quyết định dứt khoát của một người trẻ nhưng không bồng bột. Khi quyết định đến nơi ngôi nhà mới của Hội truyền giáo là sẵn sàng lên đường dấn thân cho một miền đất hứa xa xôi. Mà lẽ thường là đến một nơi nghèo, lạc hậu đang cần được khai hóa, cần được thăng tiến. Lòng can đảm của Cha cũng thể hiện trong suốt cuộc đời mục tử: những lúc đối diện với chiến tranh, với chống đối hay với bệnh tật trong tuổi già. Lòng can đảm đích thực là sự đáp lại sự thúc đẩy của Thánh Thần của một tâm hồn luôn sống dưới ánh sáng Tin Mừng. Cha đã can đảm đáp lại sự gợi hứng của Thánh Thần khi dám thành lập Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm và Dòng Thánh Tâm tại giáo phận Huế để phục vụ cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Lòng can đảm đã giúp cha biến những nỗi canh cánh bên lòng thành hiện thực. Cha là một vị mục tử say mê Thiên Chúa và say mê các linh hồn. Từ khi còn là linh mục cho đến khi làm giám mục, Cha được biết đến là vị tông đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo. Ngài luôn quan tâm đến việc truyền giáo cho người lương dân, không quản sức lực và tốn kém. Trong cương vị là giám mục tông tòa của giáo phận Huế, cha luôn hỗ trợ các linh mục trong việc truyền giáo cho lương dân. Nỗi lòng băn khoăn của Cha trước lúc qua đời cho thấy Cha say mê Thiên Chúa và say mê các linh hồn biết bao: “Ngày nào ra trước tòa phán xét, tôi chỉ sợ hai điều: một là khi sống đã không yêu phép Thánh Thể cho đủ, hai là không hết tình cứu giúp các linh hồn”. Lời xét mình ấy chỉ có thể được thốt lên từ tâm hồn của một con người đã dành cả cuộc đời để sống cho lý tưởng ấy. Phải, Cha tôi đã sống như thế. Sự thánh thiện thể hiện nơi hình ảnh một vị mục tử hết mình vì đoàn chiên và cũng nỗ lực hết mình để được ở gần bên Đấng là tình yêu và là sức mạnh của Ngài.

Cha tôi- con người của đời sống cộng đoàn

“Lớn lên trong sự thánh thiện là một hành trình trong cộng đoàn, sát cánh với những người khác (GE,140)”. Chính từ cái nôi cộng đoàn đầu tiên là gia đình đã tạo nên những nét đẹp nơi tâm hồn cậu thiếu niên Allys. Người trẻ ấy sẵn sàng từ bỏ những ước mơ của danh vọng để chọn bước vào con đường linh mục truyền giáo trong một cộng đoàn thừa sai. Tâm hồn vị linh mục trẻ ấy biểu lộ những đức tính cao đẹp đến nỗi vị chủ chăn giáo phận lúc bấy giờ phải thốt lên: “Người bạn mới này sẽ là bề trên giáo phận”. Và Cha đã trở thành vị giám mục tông tòa thứ sáu của Giáo phận Huế như lời tiên tri của Đấng tiền nhiệm. Vị mục tử có trái tim nhân hậu muốn ôm ấp hết mọi người ấy có một đức tính phù hợp cho công cuộc loan báo Tin Mừng đó là sự ôn hòa với mọi người, giản dị trong tiếp xúc và sẵn sàng đối thoại không phân biệt hay loại trừ ai. “Ai có chuyện chạy đến với ngài, thì ngài hết sức lo lắng như không có việc chi khác. Ngài sẵn sàng giúp đỡ mọi người dầu việc xem ra quá sức…”. Đó là những chia sẻ thực lòng của một người bạn đồng chí hướng viết về cho mẹ ngài. Một con người sống vì người khác thì luôn thấy nhu cầu của người khác, luôn tìm cách giúp đỡ họ bằng mọi cách. Vì thế nên dầu hưu trí, mù lòa các linh mục vẫn thường xuyên đến xin lời cầu nguyện, chỉ dạy và cố vấn của Cha. Dù mù lòa nhưng Cha vẫn dõi theo giáo phận để cầu nguyện và hỗ trợ trong khả năng có thể. Cha luôn cần những bàn tay nối dài cộng tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Chính vì thế, trong những năm làm giám mục, Cha bảo trợ và đón nhận nhiều Dòng tu đến hiện hiện và phục vụ tại giáo phận Huế như Đan viện Carmel, Đan viện Phước Sơn, Dòng La San, Dòng Chúa Cứu Thế,…Hơn nữa, chính ngài đã thành lập hai Hội dòng giáo phận nơi mà Cha tin tưởng rằng đó là con đường nên thánh cho những ai có ơn gọi sống cho Chúa và phục vụ tha nhân trong hai Hội dòng này.

Cha tôi- con người của đời sống cầu nguyện liên lỉ.

“Sự thánh thiện hệ tại ở sự mở ra thường xuyên với Đấng siêu việt, được diễn tả trong cầu nguyện và thờ phượng” (GE,147). Quả thật, sự thánh thiện của con người chỉ có được khi họ gắn bó với Thiên Chúa Ba Ngôi, được thông phần vào vẻ đẹp hoàn mỹ của Đấng thánh thiện tuyệt đối, được ánh sáng của Ngài chiếu soi vào những góc tối của tâm hồn. Sự hiệp thông với Thiên Chúa một cách hữu hiệu nhất qua con đường cầu nguyện. Với Cha, việc tông đồ được đặt trên nền tảng của đời sống cầu nguyện. Cha tin tưởng vào sức mạnh của lời cầu nguyện nên đã bảo trợ cho việc thiết lập hai Đan viện trong giáo phận để hậu thuẫn cho công cuộc truyền giáo. Dù được biết đến là vị thừa sai hăng say không mệt mỏi cho việc truyền giáo nhưng Cha đã để lại dấu ấn đẹp khác đó là hình ảnh của vị mục tử lặng lẽ cầu nguyện một mình sau khi giải tán giáo dân. Đẹp hơn nữa là hình ảnh một vị giám mục già và mù lòa vẫn ngày ngày lên nhà nguyện chầu Thánh Thể và lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện cho việc mở mang Nước Chúa và các nhu cầu của giáo phận. Đó là dấu chỉ của một tâm hồn kết hợp với Chúa liên lỉ trong cầu nguyện và hy sinh, một tâm hồn trung tín đến cùng.

Từ gương sáng của Cha

Cha trong lòng tôi không giống như một nhân vật anh hùng trong truyền thuyết hay trong lịch sử ngày xưa (mặc dù Cha tôi là một anh hùng thực sự). Cha cũng không phải là một vị thánh được diễn tả như một số vị thánh được kể trong hạnh các thánh xưa theo kiểu có cuộc sống dị thường và làm những việc khác thường (dù tôi tin chắc Cha mình đã là một vị thánh). Cha đã sống thánh trong chính đời sống thường nhật và ngang qua sứ vụ Chúa trao. Những dòng đơn sơ suy gẫm về cuộc đời Đấng Sáng lập chỉ phát xuất từ tấm lòng của một người con dành cho Cha mình. Người con đã được sinh ra trong Hội dòng của Cha, đang thừa hưởng và tiếp nối gia sản thiêng liêng Cha để lại. Tôi muốn chiêm ngắm những nét thánh thiện của Cha trong đời thường để thấy được sức mạnh nội tâm phi thường của Cha. Cuộc đời của Cha gắn liền với sứ mạng loan báo Tin Mừng cho người nghèo với biết bao gian khổ và thách đố của thời cuộc. Tôi hôm nay cũng đang được Chúa mời gọi sống ơn gọi thánh mỗi ngày trong Hội dòng của Cha. Nhìn lên gương Cha, tôi sẽ mạnh mẽ bước đi trong niềm tin và hy vọng, cùng chung tay trong sứ vụ loan báo Tin Mừng tình thương Chúa cho mọi người như Cha hằng thao thức.

Đóa Quỳnh, FMI