Suy tư về mẫu gương hy vọng của Đức Cha Allys

Đấng Tổ phụ - Đức cha Eugène Marie Joseph Allys đã thực sự thể hiện tinh thần là người môn đệ đích thực của Chúa Kitô khi ngài đã sống trọn vẹn nỗi vui mừng và niềm hy vọng...


Năm Thánh Hy Vọng 2025 là thời khắc đặc biệt để toàn thể Giáo hội cùng nhau suy tư và sống sâu xa Niềm Hy Vọng Kitô giáo. Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông sắc Spes non confundit (Hy vọng không làm thất vọng), đã kêu gọi mọi tín hữu không chỉ nuôi dưỡng niềm hy vọng Kitô giáo nơi chính mình mà còn trở thành những chứng nhân sống động của niềm hy vọng, mang hy vọng ấy đến cho mọi nơi và tất cả mọi người (x. Spes non confundit, số 1).

Cùng bước đi trong hy vọng với toàn thể Giáo hội trong Năm Thánh 2025, thật một cơ hội ý nghĩa để chúng ta cùng suy tư và học hỏi về mẫu gương của những Đấng đã và đang là nguồn cảm hứng tuyệt vời của hy vọng cho những người sống ơn gọi thánh hiến. Đối với mỗi chị em Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức cha Tổ Phụ Eugène Marie Joseph Allys chính là chứng nhân sống động về hy vọng cho ơn gọi thánh hiến của mỗi chị em. Ngài không chỉ sống đời sống hy vọng cho chính mình, nhưng suốt một cuộc đời, ngài luôn ưu tư gieo rắc hy vọng cho những người khác, nhất là những người nghèo khó, hèn mọn.

Suy ngẫm về cuộc đời và chân dung của Đấng Tổ phụ, chúng ta sẽ cảm nhận rằng trong mọi hoàn cảnh khó khăn và tuyệt vọng nhất của thời đại, Đấng Tổ phụ vẫn luôn kiên cường và can đảm tiến bước về phía trước với một Niềm hy vọng không hề nao núng vào Thiên Chúa. Niềm hy vọng này là động lực và sức mạnh giúp Vị thừa sai này dâng trọn đời mình cho đất nước Việt Nam, tại giáo phận Huế suốt 61 năm, không một ngày trở về quê hương.

1. Đời sống cầu nguyện thâm sâu và Bí Tích Thánh Thể - Nơi khơi Nguồn Hy vọng của Đức Cha Tổ phụ

Đức cha Allys được nhận xét là “kẻ có lòng mến Thánh Thể cách riêng”. Thật vậy, điều chúng ta nhận thấy nổi bật nơi Đức cha Allys: đó là một con người có đời sống cầu nguyện sâu xa, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể-Nguồn hy vọng và sức mạnh cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài. Ngài đã từng nói trong lá thư gởi cho Đức Hồng y Pietro Fumasoni Biondi rằng “Từ nay, cuộc sống của con tóm lại trong cầu nguyện và tôn thờ Thánh Thể”, và toàn bộ cuộc sống chứa chan hy vọng của ngài luôn luôn phản ánh một cách chân thực và sống động câu nói ấy (x. FMI, Đức cha E.M.J. Allys, Đấng Tổ phụ Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, tr. 56).

Niềm hy vọng của ngài xuất phát từ việc yêu mến và trung thành với đời sống cầu nguyện, cách đặc biệt là ở lại trong Bí tích Thánh Thể. Tiểu sử của Đức cha Allys ghi lại: Sau giờ kinh chung với giáo dân ban tối, ngài ở lại Chầu Thánh Thể rất lâu. Thời gian hưu trí mù loà, ngài thường ở trong nhà thờ suốt buổi chiều để cầu nguyện và Chầu Thánh Thể (x. FMI, Tiểu sử Đức cha Allys, tr.16). Ngài không chỉ thao thức cho đời sống thiêng liêng của ngài, ngài còn luôn hy vọng cho đàn chiên mà mình chăn dắt cũng có được đời sống nội tâm sâu xa. Niềm hy vọng này được Đức cha bày tỏ qua thao thức cho đàn chiên được lãnh nguồn ân sủng Bí tích bất chấp nhiều khó khăn mà ngài gặp phải: chúng con cũng tìm thấy được nhiều an ủi, trong đó đáng kể nhất là lòng sùng đạo của các Kitô hữu vốn càng ngày càng có nhiều người đến gần Bí tích Sám Hối và Thánh Thể hơn.

2. Gương Hy vọng của Đức Cha Tổ phụ

Hy vọng luôn ẩn chứa tình yêu, trung tín, hy sinh, tin tưởng, khao khát những gì tốt đẹp ló rạng. Hơn thế nữa, chính hy vọng là nguồn cảm hứng cho những phát minh, sáng tạo, đổi mới không ngừng nghỉ của con người qua mọi thời và mọi nơi (x. Caritas in Veritate, số 34). Đức cha Allys đã hy vọng gì khi những bước chân đầu tiên của ngài được đặt trên mảnh đất An Nam lúc bấy giờ với muôn vàn những khó khăn cùng khổ cả về đời sống vật chất cũng như tinh thần? Phải là một tâm hồn đủ vĩ đại, một con tim đủ lớn mới có thể chứa đựng một tình yêu và niềm hy vọng lớn lao như vậy, niềm hy vọng đem Tin Mừng tung gieo đến tất cả mọi nơi, nhất là những nơi xa xôi và nguy hiểm nhất.

Cuộc đời sứ vụ của ngài trải qua nhiều biến chuyển thăng trầm, nhất là khi kinh hoàng chứng kiến cuộc chiến tương tàn hãi hùng kéo dài từ năm 1883 đến năm 1886 với đa số nhà thờ của Giáo phận Huế từ đèo Hải Vân đến Nam sông Gianh Quảng Bình đã nên mồ tập thể chôn sống nhiều người Công giáo (x. FMI, Đức cha E.M.J. Allys, Đấng Tổ phụ Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, tr. 91). Vì vẫn vững niềm tin tưởng và hy vọng vào sự quan phòng của Thiên Chúa nhân lành, Đức cha mới có đủ sức mạnh để tiếp tục sát cánh bên đoàn chiên của mình trong những hoàn cảnh tàn khốc nhất. Dù thế nào đi nữa, ngài vẫn luôn trung tín để hy vọng về một tương lai hạnh phúc và ơn cứu độ đời đời cho đoàn chiên của mình.

Hy vọng là vốn liếng quí nhất của con người trong cuộc sống, là chỗ dựa an toàn cho những gì bất cập hay vượt tầm kiểm soát của con người. Công đồng Vatican II viết: “Số phận mai sau của nhân loại nằm trong tay những người có khả năng trao cho hậu thế những lý do để sống và để hy vọng” (Gaudium et Spes, số 31). Có thể nói rằng những gia sản thiêng liêng mà Hội dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm đang được thừa hưởng ngày hôm nay là nhờ sự hy vọng đầy kiên cường của Đấng Sáng lập. Khi nhìn thấy số trẻ em ngày càng đông, lớn lên trong các miền thôn quê, mù chữ, không nghề nghiệp; một số trẻ em Công giáo khá giả được vào học các trường công, nhưng nơi đây các giáo viên vô thần thường bài xích tôn giáo, Đức cha đã rất đau lòng và ngài đã hy vọng cho đời sống đức tin và văn hoá của lớp trẻ này được thăng tiến hơn (x. FMI, Lược sử Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm 1920-2010, tr. 19-20). Và niềm hy vọng của Đức cha đã thành hiện thực, đặc biệt được thể hiện rõ nét qua sự phát triển về sứ mạng giáo dục của Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Hành trình hơn 100 năm trong sứ mạng giáo dục văn hoá và đức tin của Hội dòng có thể nói là một minh chứng sống động cho thấy niềm hy vọng của Đấng Tổ phụ lớn lao và kiên cường như thế nào. 

3. Tiếp nối Niềm Hy vọng của Đấng Tổ phụ

Ý thức rằng Giáo hội cùng song hành với thế giới và cho thế giới, trong ngôn ngữ hy vọng, câu đầu tiên của Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng) ngay từ số đầu tiên đã nhấn mạnh rằng: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ”.

Đấng Tổ phụ - Đức cha Eugène Marie Joseph Allys đã thực sự thể hiện tinh thần là người môn đệ đích thực của Chúa Kitô khi ngài đã sống trọn vẹn nỗi vui mừng và niềm hy vọng, ưu sầu và lo lắng cùng với những anh chị em của thời đại mình. Ngài đã cùng khổ đau với những con người đau khổ, cùng khóc than với những cảnh đời than khóc trong những biến cố tương tàn của thời cuộc, ngài cũng cảm được sự thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần mà đoàn chiên của ngài đang phải gánh chịu. Và với sức mạnh nội tâm kín múc từ đời sống cầu nguyện, đặc biệt qua Bí tích Thánh Thể, ngài đã hy vọng và hiện thực hoá niềm hy vọng về sự phát triển của Nước Thiên Chúa trên mảnh đất truyền giáo này. 

Là những người con thiêng liêng của Đấng Tổ phụ, chị em Con Đức Mẹ Vô Nhiễm cũng tiếp nối niềm hy vọng mà ngài đã khơi nguồn. Từ sáu Chị tiên khởi hiện diện trên mảnh đất Phú Xuân cách âm thầm, bé nhỏ, với một niềm hy vọng lớn lao vào Tình Yêu và Ân Sủng của Thiên Chúa, đến nay bước chân loan báo Tin Mừng của chị em đã tung gieo nhiều nơi trên đất nước và cả đến những nơi xa xôi. Lịch sử trên 100 năm hiện diện và hoạt động đã lưu dấu nhiều bước chân của những người Con Đức Mẹ Vô Nhiễm luôn bước đi cùng thế giới trong hy vọng, luôn sẵn sàng lên đường trong nhiều lãnh vực sứ vụ đa dạng của Hội dòng: giáo dục đức tin và văn hoá, bác ái-y tế-xã hội, loan báo Tin Mừng. Đặc biệt niềm hy vọng về lớp trẻ cần được giáo dục đức tin và văn hoá mà Đấng Tổ phụ ấp ủ cũng đã được chị em cưu mang và thực hiện nơi nhiều cộng đoàn và cơ sở giáo dục của Hội dòng.

Hướng về tương lai với niềm hy vọng, cùng với Mẹ Maria là Ngôi Sao Hy Vọng luôn đồng hành và soi đường dẫn lối cho đời sống thánh hiến và sứ vụ của mỗi người Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, chị em theo dấu chân của Đấng Tổ phụ tiếp tục bước đi trong hy vọng với với toàn thế giới, với những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của anh chị em đang hiện diện với chúng ta trong thời đại hôm nay. Ước mong sao đời sống và sứ vụ của mỗi chị em cũng là một dấu chỉ hy vọng cho thế giới, dấu chỉ hướng con người về Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Mạch và Cùng Đích của Hy Vọng.

M. Matta Kim Quyên (Khấn tạm), FMI