Những bài giáo huấn về Đức Maria- Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

(Lm. Phan Tấn Thành, OP dịch) Từ nhiều năm qua, Đức Gioan Phaolô II đã dành những buổi tiếp kiến chung vào ngày thứ tư hàng tuần để giải...


(Lm. Phan Tấn Thành, OP dịch)

Từ nhiều năm qua, Đức Gioan Phaolô II đã dành những buổi tiếp kiến chung vào ngày thứ tư hàng tuần để giải thích Kinh Tin kính, bắt đầu từ Chúa Cha tạo thành vũ trụ, Chúa Con nhập thể và cứu thế, Chúa Thánh Thần nguồn ban sức sống và sự thánh thiện. Chính trong phần thứ ba của Kinh Tin kính, sau khi đã giải thích bản chất và sứ mạng của Hội thánh, Đức Thánh Cha đã dành 70 bài để nói về Đức Maria, kéo dài từ ngày 7.9.1995 đến ngày 13.11.1997.

Ai cũng biết Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II có lòng tôn kính đặc biệt với Đức Mẹ. Khẩu hiệu đã được chọn từ khi làm giám mục đã bộc lộ điều đó: “Totus tuus”, (toàn thân con thuộc về Mẹ), một công thức dâng hiến dựa theo học thuyết của thánh Louis Marie Grignon de Montfort. Đừng kể rất nhiều bài giảng, huấn từ, và những kinh ký thác được soạn vào những hoàn cảnh khác nhau, ngài đã viết một thông điệp về Đức Maria:Redemptoris Mater (Thân mẫu Đấng Cứu chuộc, ngày 25.03.1987). Trong những bài huấn giáo sau đây, với một lối văn đơn giản, ngài muốn trình bày “một toát lược căn bản của lòng tin Hội thánh về Đức Maria” (xc. bài 10). Dựa theo hướng đi của công đồng Vaticano II trong Hiến chế Hội thánh, thiên chức và sứ mạng của Đức Maria được nghiên cứu dựa theo mối tương quan với Đức Kitô (Con Thiên Chúa Nhập thể và Đấng Cứu chuộc nhân loại) và với Hội thánh (Nhiệm thể của Đức Kitô).

Chúng ta có thể phân chia bố cục của 70 bài huấn dụ thành ba phần chính: 

Tác giả Lm. Phan Tấn Thành, OP

 

  1. NHẬP ĐỀ (BÀI 1-11)

Trước hết, Đức Thánh Cha điểm qua những tước hiệu mà các Kitô hữu đã gán cho Đức Maria trải qua lịch sử Hội thánh, – từ những tước hiệu cổ điển đã gặp thấy trong Tân ước (chẳng hạn như: Thân mẫu của Đức Giêsu, Thân mẫu của Đức Emmanuel, Đức Trinh nữ), cho đến những tước hiệu xuất hiện vào thời các giáo phụ (chẳng hạn như : Đức Mẹ Chúa Trời), cũng như những chứng tích về lòng thảo hiếu của các tín hữu dâng lên Người (các kinh nguyện, các lễ phụng vụ, các cuộc hành hương,vv) – . Từ đó, ngài muốn vạch ra vài đường hướng để hiểu rõ hơn bản thân và thiên chức của Đức Mẹ.

1/ Dĩ nhiên, những chân lý đức tin về Đức Maria cần được đặt nền tảng trên Thánh kinh và Thánh truyền (bài 4). Trên thực tế, phần lớn các bài huấn giáo đều dựa trên các bản văn Thánh kinh (cả Cựu ước lẫn Tân ước), được giải thích theo truyền thống của Hội thánh công giáo.

2/ Thần học về Đức Maria (Thánh-Mẫu-học) không phải chỉ  là công trình của các cuộc suy tư lý thuyết nhưng đã nhận được sự đóng góp quan trọng do lòng đạo đức bình dân (bài 5). Ngày nay, một yếu tố giúp đào sâu hơn sứ mạng của Đức Maria là “phong trào nữ quyền”, khi vạch ra những đức tính của người phụ nữ cũng như sự đóng góp đặc trưng của nữ giới vào đời sống xã hội (bài 7-8).

3/ Dựa theo công đồng Vaticanô II, bức chân dung của Đức Maria sẽ trở nên phong phú và trung thực khi được đặt  trong mối tương quan với Chúa Kitô và với Hội thánh (bài 9). Đức Thánh Cha còn muốn mở rộng ra đến mối tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa nữa (bài 11).

4/ Sau khi nhận ra vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ, cần phải rút ra những hệ luận thực hành cho đời sống của người Kitô hữu: ngưỡng mộ, yêu mến, bắt chước các mẫu gương nhân đức, tin tưởng ký thác (bài 10). 

Tác giả Lm. Phan Tấn Thành, OP

  1. ĐỨC MARIA THEO KINH THÁNH
  1. Những lời tiên báo trong Cựu ước về vai trò của Đức Maria

1/ Người nữ chiến thắng con rắn: St 3,15 (bài 12)

2/ Những đoạn văn nói về bà Mẹ của Đấng Mêsia: Is 7,14; Mk 5,1-2 (bài 13); và những bà mẹ của các ngôn sứ (bài 14).

3/ Những phụ nữ góp phần vào việc giải phóng dân tộc (bài 15), và những phụ nữ đức hạnh (bài 16).

  1. Đức Maria theo Tân ước

Trong các tác phẩm Tân ước, Đức Maria được nói nhiều hơn cả trong Phúc âm theo thánh Luca, đặc biệt là trong hai chương đầu (quen gọi là “Phúc âm thời niên thiếu”).

1/ Đức Gioan Phaolô II đã dừng lại khá lâu (bài 19-33) ở cảnh Truyền tin (Lc 1,26-38), để bàn về các tước hiệu của Đức Maria: “đầy ơn phước” (bài 19), “toàn thánh” (bài 20), “trinh nữ” (bài 26), “nữ tì của Thiên Chúa” (bài 32). Đây cũng là cơ hội để giải thích những chân lý đức tin về “Vô nhiễm nguyên tội” (bài 21-23) và “Trọn đời đồng trinh” (bài 31).

2/ Tiếp đến là những đoạn chú giải trình thuật về cuộc Thăm viếng bà Isave (bài 34-35), Giáng sinh (bài 36)- nền tảng của tín điều “Đức Mẹ Chúa Trời” (bài 37) -, Tiến dâng (bài 39-41), Lạc mất và tìm gặp lại Con trong đền thờ (bài 42).

3/ Trong cuộc đời công khai của Đức Kitô, Phúc âm thánh Gioan để lại haiđoạn văn quan trọng nói về vai trò của Đức Maria trong công trình cứu thế: tại tiệc cưới Cana (bài 44-45) và dưới chân thập giá (bài 47-50).

4/  Sau cùng, chúng ta theo dõi cuộc đời Đức Maria từ khi Chúa Kitô phục sinh (bài 51) và trao ban Thánh Thần, khai trương Hội thánh (bài 52), cho đến khi Người lìa đời (bài 53), đối tượng của tín điều Mông triệu Thăng thiên (bài 54-55). 

Tác giả Lm. Phan Tấn Thành, OP

 

III. ĐỨC MARIA VỚI HỘI THÁNH

1/ Đức Maria là một phần tử ưu việt của Hội thánh (bài 57-58): Người là điển hình và khuôn mẫu cho Hội thánh: trong chức vụ làm mẹ (bài 59), trong việc chung thủy với Chúa Kitô tựa như trinh nữ với Hôn thê (bài 60), trong việc thực hành các nhân đức (bài 61), trong việc thờ phượng Thiên Chúa (bài 62).

2/ Đức Maria là Mẹ của Hội thánh trong hệ trật ơn sủng (bài 63), đặc biệt là qua việc chuyển cầu cho chúng ta (bài 64-65).

3/ Đáp lại, các tín hữu bày tỏ lòng mộ mến hiếu thảo, qua việc tôn kính (bài 66-68), khẩn cầu (bài 69), và tín thác (bài 70).

Ngoài mục tiêu huấn giáo, thiết tưởng những bài trên đây có thể được sử dụng vào việc suy niệm (đặc biệt khi đọc kinh Mân côi), hoặc học hỏi về Thánh mẫu học. Thiết tưởng không phải là thừa khi nhắc lại vài văn kiện quan trọng của Huấn quyền cận đại về Đức Maria:

– Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Hội thánh Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), chương VIII, số 52-69 (ngày 21.11.1964).

– GH Phaolô VI, tông huấn Marialis cultus “Việc tôn kính Đức Maria” (ngày 02.02.1974).

– GH Gioan Phaolô II, thông điệp Redemptoris Mater “Thân mẫu Đấng Cứu thế” (ngày 25.3.1987).

Một sách tham khảo không thể thiếu là Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (ngày 11.10.1992), viết tắt GLCG.

Chúng tôi sẽ quy chiếu các bản văn này khi chú dẫn các bài huấn giáo.

Tác giả Lm. Phan Tấn Thành, OP

 

BÀI 1: SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC MARIA VÀO LÚC KHỞI NGUYÊN CỦA HỘI THÁNH

 Tiếp tục loạt bài huấn giáo về Hội thánh, Đức Thánh Cha muốn trình bày loạt bài về Đức Maria. Việc gắn liền Đức Maria với mầu nhiệm Hội thánh không những phù hợp với hướng đi của công đồng Vaticanô II (xc. bài số 9), nhưng có nền tảng từ Tân ước. Sách Tông đồ công vụ đã ghi nhận sự hiện diện của Mẹ Maria vào buổi khai nguyên của Hội thánh, tại nhà Tiệc ly tại Giêrusalem, trong những ngày cầu nguyện khẩn cầu Chúa Thánh Thần. Đức Maria hiện diện như một nhân vật hướng dẫn Hội thánh trong sự đồng tâm cầu nguyện và trung thành ghi nhớ Chúa Kitô.

1.- Sau khi đã dừng lại trong những bài huấn giáo trước đây để đào sâu về bản chất và sứ mạng của Hội Thánh, giờ đây tôi thấy cần phải hướng mắt nhìn lên thánh Trinh nữ Maria, Đấng đã thể hiện sự thánh thiện của Hội thánh một cách toàn hảo, và trở thành khuôn mẫu cho sự thánh thiện đó.

Đó cũng là điều mà các Nghị phụ công đồng Vaticano II đã làm: sau khi đã trình bày đạo lý về thực thể lịch sử cứu độ của Dân Thiên Chúa, các Nghị phụ đã muốn hoàn tất đạo lý đó với việc trình bày vai trò của Đức Maria trong công cuộc cứu độ[1]. Thực vậy, chương VIII của Hiến chế Ánh sáng muôn dân không những chỉ nhằm nêu bật chiều kích Hội thánh của đạo lý về Đức Maria, mà còn muốn làm sáng tỏ sự đóng góp mà hình ảnh của Đức Maria mang lại cho chúng ta trong việc hiểu biết thêm về mầu nhiệm của Hội thánh.

2.- Trước khi trình bày hành trình của Công đồng để tìm hiểu Đức Maria tôi ước muốn nhìn ngắm Đức Maria vào lúc khởi nguyên của Hội thánh, đã được sách Tông đồ công vụ kể lại. Thánh Luca mở đầu tác phẩm Tân ước trình bày cuộc sống của cộng đoàn đầu tiên của các Kitô hữu, sau khi nhắc tới danh tánh của từng vị Tông đồ(1,13), đã nói rằng: “Tất cả mọi người đều chuyên chăm đồng tâm cầu nguyện cùng với một vài phụ nữ và với Đức Maria, Thân mẫu của Đức Giêsu, và với các anh em của Chúa” (1,14).

Trong quang cảnh đó, chúng ta thấy nổi bật lên Đức Maria, nhân vật duy nhất được nhắc tới đích danh – ngoài các thánh Tông đồ ra: Đức Maria đã tượng trưng cho một khuôn mặt của Hội thánh vừa khác biệt vừa bổ túc cho khuôn mặt tác vụ và phẩm trật của Hội thánh.

3.- Thực vậy, câu nói của thánh Luca đã kể lại sự hiện diện, trong nhà Tiệc ly, của một vài phụ nữ, và như vậy ông đã muốn nêu bật tầm quan trọng của các phụ nữ trong đời sống Hội thánh ngay từ lúc ban đầu. Sự hiện diện này đã được nối kết chặt chẽ với sự bền bỉ kiên trì của cộng đoàn trong sự cầu nguyện và đồng tâm nhất trí. Những nét này đã diễn tả một cách toàn hảo hai khía cạnh căn bản của sự đóng góp đặc thù mà các phụ nữ mang lại cho đời sống của Hội thánh. Nam giới thường nghiêng về những khuynh hướng hoạt động ở bên ngoài; vì thế họ cần các phụ nữ giúp đỡ để biết chú ý hơn đến những tương quan liên-bản-vị và tiến triển đến sự kết hợp của các tâm hồn.

Đức Maria, “kẻ được chúc phúc hơn mọi người nữ” (Lc 1, 42) , đã chu toàn một cách nổi bật sứ mạng đó của phụ nữ. Thử hỏi xem có ai, hơn Đức Maria, đã cổ võ giữa hết mọi tín hữu sự kiên trì trong việc cầu nguyện? Có ai, hơn Mẹ, đã cổ động sự hòa hợp và tình yêu thương?

Vì đã nhận chân sứ mạng mục vụ được Chúa Giêsu đã ủy thác cho Mười Một Tông đồ, các phụ nữ trong nhà Tiệc ly, cùng với Đức Maria ở giữa họ, đã kết hiệp với lời cầu nguyện của các tông đồ, và đồng thời minh chứng cho sự hiện diện trong Hội thánh của những người tuy không lãnh nhận sứ mạng tông đồ nhưng cũng là những phần tử trọn vẹn của cộng đoàn đã được kết hiệp trong đức tin vào Đức Kitô.

4.- Sự hiện diện của Đức Maria trong cộng đoàn cầu nguyện đón chờ Chúa Thánh Thần xuống (x. Cv 1,14) đã gợi lên phần đóng góp của Đức Maria trong cuộc Nhập thể của Con Thiên Chúa do quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,35). Cả hai vai trò của Đức Trinh nữ Maria, lúc khai mào trước đây và lúc Hội thánh xuất hiện bây giờ vào lễ Hiện xuống, đều có liên lạc mật thiết với nhau.

Sự hiện diện của Đức Maria vào thời buổi sơ sinh của Hội thánh mang sắc thái nổi bật khi đối chiếu với sự thông dự kín đáo của Người trong giai đoạn trước đây, nghĩa là vào thời gian hoạt động công khai của Đức Giêsu. Vào lúc Con của Người thi hành sứ vụ thì Đức Maria ở lại Nazaret, tuy dù sự cách ly đã không loại bỏ vài cuộc tiếp xúc đầy ý nghĩa như là tại Cana, và nhất là đã không ngăn cản Người tham dự vào hy tế trên núi Calvariô[2].

Ngược lại, trong cộng đoàn tiên khởi, Đức Maria giữ một vai trò đáng kể. Sau khi Chúa Giêsu lên trời và đang lúc chờ đợi lễ Ngũ tuần, Thân mẫu của Đức Giêsu đã đích thân hiện diện tại những bước đầu của công trình mà người Con của Mẹ đã khai trương[3].

5.- Sách Tông đồ công vụ đã nhấn mạnh rằng Mẹ Maria có mặt trong nhà Tiệc ly cùng với “các anh em của Đức Giêsu” (Cv1,14), nghiã là cùng với các họ hàng thân thích của Chúa, như là truyền thống Hội thánh vẫn hiểu: đây không phải là một cuộc tụ họp gia đình cho bằng, dưới sự hướng dẫn của Mẹ Maria, gia đình tự nhiên của Đức Giêsu đã trở thành gia đình tinh thần của Đức Kitô: “ ai tuân hành ý của Thiên Chúa – như Đức Giêsu đã nói – thì người đó là anh, chị em và là mẹ của tôi” (Mc 3, 34).

Cũng trong một hoàn cảnh đó, thánh Luca đã đặt danh hiệu cho Đức Maria là: “Thân mẫu của Đức Giêsu” (Cv 1,14), ra như muốn gợi ý rằng có cái gì của Đức Kitô lên trời vẫn còn tồn tại qua sự hiện diện của bà Thân mẫu. Đức Maria nhắc nhở cho các môn đệ khuôn mặt của Đức Giêsu, và với sự hiện diện ở giữa cộng đoàn, Mẹ trở thành dấu hiệu cho lòng chung thủy của Hội thánh đối với Chúa Kitô.

Trong bối cảnh này, danh hiệu “Thân mẫu” nói lên thái độ gần gũi và ân cần mà Đức Maria sẽ tiếp tục theo dõi đời sống của Hội thánh. Đức Maria sẽ mở cửa lòng mình cho Hội thánh để bày tỏ những kỳ công mà Thiên Chúa toàn năng và lân tuất đã thực hiện ở nơi Người.

Ngay từ buổi đầu, Đức Maria đã thi hành chức vụ làm “Thân mẫu của Hội thánh”: hoạt động của Mẹ đã giúp cho các tông đồ duy trì sự đoàn kết, được thánh Luca trình bày như là “đồng tâm hiệp ý”, khác xa với sự cãi cọ mà trước đây đã xảy ra giữa họ với nhau.

Sau cùng, Đức Maria đã thực thi sứ mạng làm mẹ đối với cộng đoàn các tín hữu, không những cầu xin cho Hội thánh được các hồng ân của Chúa Thánh Thần, cần thiết cho sự hình thành và cho tương lai của Hội Thánh, mà đồng thời còn dạy dỗ các môn đệ của Đức Kitô được biết liên lỉ kết hiệp với Thiên Chúa.

Như vậy, Đức Maria trở thành người giáo dục dân Chúa về sự cầu nguyện, về sự gặp gỡ Thiên Chúa, một yếu tố quan thiết ngõ hầu hoạt động của các mục tử và của các tín hữu luôn luôn bắt đầu và tìm thấy động lực sâu xa ở trong Thiên Chúa.

6.- Những nhận xét vắn tắt trên đây cho thấy rõ là mối tương quan giữa Đức Maria và Hội thánh dẫn đưa tới việc đối chiếu lý thú giữa hai bà mẹ với nhau. Mối tương quan ấy làm sáng tỏ chức phận làm mẹ của Đức Maria, và thúc đẩy Hội thánh cũng luôn luôn đi tìm hiểu chân tướng của mình qua việc ngắm dung nhan của Đức Mẹ Chúa Trời.

 

[1] Bố cục của Hiến chế tín lý về Hội thánh Ánh sáng muôn dân, gồm 8 chương: I. Mầu nhiệm Hội thánh. II. Dân Thiên Chúa. III. Cơ cấu phẩm trật của Hội thánh. IV. Các giáo dân. V. Ơn gọi tất cả mọi người nên thánh. VI Các tu sĩ. VII. Đặc tính cánh chung của Hội thánh lữ hành. VIII. Thánh mẫu Maria trong mầu nhiệm Đức Kitô và Hội thánh.

[2] Xc bài 46

[3] Xc bài 52

Tác giả Lm. Phan Tấn Thành, OP

 

BÀI 2: KHUÔN MẶT CỦA MẸ MARIA TRONG NHỮNG THẾ KỶ ĐẦU TIÊN

Từ những thế kỷ đầu tiên của Hội thánh, Đức Maria đã được gọi là “Mẹ của Đức Giêsu”, “Mẹ đồng trinh”, “Mẹ Thiên Chúa”: cả ba đều nhằm diễn tả mối tương quan giữa Đức Maria với mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người. 

1.- Trong Hiến chế Anh sáng muôn dân, công đồng Vaticanô II đã quả quyết rằng “ các tín hữu liên kết với Đức Kitô là đầu thì cũng kết hiệp với hết các thánh của Người, và cũng phải tôn kính “trước hết là Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh, Thân mẫu Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa và Chúa chúng ta”(số 52). Hiến chế của Công đồng đã dùng những lời của Lễ Quy Rôma để nói lên rằng Đức tin vào Đức Maria là Thân mẫu Thiên Chúa đã hiện diện trong tư tưởng Kitô giáo ngay từ những thế kỷ đầu tiên.

Trong Hội thánh mới khai sinh, Đức Maria được nhắc nhớ với tước hiệu là “Thân mẫu của Đức Giêsu”. Chính thánh sử Luca đã tặng tước hiệu này cho Người ở sách Tông đồ công vụ, một tước hiệu cũng phù hợp với những gì đã nói ở trong các sách Phúc âm. Theo thánh sử Marcô (6, 3) người dân ở Nazarét đã hỏi nhau rằng: “ông ta …không phải là con của bà Maria đó ư?”; còn thánh sử Matthêu (13,55) ghi lại: “Tên bà mẹ ông ta là Maria phải không?”.

2.- Dưới mắt của các môn đệ, tụ họp nhau lại sau khi Chúa lên trời, tước hiệu “Thân mẫu của Đức Giêsu” đã mặc một ý nghĩa rất là sâu đậm. Đức Maria đối với họ là một nhân vật có một không hai: Người đã nhận được hồng ân đặc biệt là sinh hạ Đấng Cứu chuộc nhân loại, Người đã sống lâu năm bên cạnh Chúa, và trên núi Calvariô đã được Chúa mời gọi giữ vai trò của một “người mẹ mới” đối với môn đệ yêu dấu và, qua người môn đệ này, của tất cả Hội thánh.

Đối với những ai tin kính và bước theo Chúa, “Thân mẫu của Đức Giêsu” là một tước hiệu tôn kính sẽ còn tồn tại mãi mãi trong đời sống và trong niềm tin của Hội thánh. Cách riêng, qua tước hiệu này, các Kitô hữu muốn khẳng định rằng không thể nào tìm về nguồn gốc của Đức Giêsu mà không nhận biết vai trò của một người phụ nữ đã sinh ra Người trong Chúa Thánh Thần theo bản tính nhân loại. Chức vụ làm mẹ của Đức Maria cũng có ảnh hưởng tới sự sinh hạ và phát triển của Hội thánh. Khi nhắc tới vai trò của Đức Maria trong cuộc đời của Đức Giêsu, các tín hữu mỗi ngày khám phá ra sự hiện diện đắc lực của Mẹ trong hành trình thiêng liêng của mình.

3.- Ngay từ đầu, Hội thánh đã nhìn nhận Đức Maria là mẹ đồng trinh. Như các Phúc âm thời niên thiếu đã hé cho thấy, các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã thu thập lại những ký ức của Đức Maria về những hoàn cảnh huyền nhiệm chung quanh việc thụ thai và sinh hạ Chúa Cứu thế. Cách riêng, trình thuật về việc Truyền tin đã đáp lại lòng khát khao của các môn đệ muốn biết một cách sâu đậm hơn những việc có liên quan tới những giây phút bắt đầu cuộc sống dương thế của Đức Kitô Phục sinh. Xét cho cùng, Đức Maria là nguồn gốc mặc khải về mầu nhiệm sự thụ thai trinh khiết do quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Chân lý đó, khi cho thấy nguồn gốc thiên tính của Đức Giêsu, đã được các Kitô hữu nguyên thủy nắm bắt được tầm quan trọng, và đã được liệt vào những điều xác tín quan trọng của đức tin. Tuy được coi là con của ông Giuse theo luật pháp, nhưng trên thực tế Đức Giêsu nhờ sự can thiệp đặc biệt của Chúa Thánh Thần, xét về nhân tính thì chỉ là con của bà Maria mà thôi, bởi vì Người đã được sinh ra mà không do sự can dự của một nam nhân.

Như vậy sự trinh khiết của Đức Maria đã mang một giá trị đặc biệt, vì làm sáng tỏ sự sinh hạ và về mầu nhiệm làm con của Đức Giêsu , bởi vì sự sinh hạ trinh khiết là dấu chỉ rằng Đức Giêsu chỉ có Thiên Chúa là Cha mà thôi[1].

Các giáo phụ đã nhìn nhận và tuyên xưng chân lý đức tin về “Mẹ đồng trinh”; chân lý này không bao giờ có thể tách ra khỏi bản tính của Đức Giêsu, là người thật và là Thiên Chúa thật, bởi vì “Người đã được sinh ra bởi Đức Trinh nữ Maria” như là chúng ta tuyên xưng trong tín biểu của công đồng Nixêa-Constantinopolis. Đức Maria là kẻ duy nhất vừa là trinh nữ và cũng là mẹ. Sự hiện diện khác thường của cả hai đặc ân trong con người của thiếu nữ Nazarét đã đưa các tín hữu tới chỗ gọi Đức Maria dưới một danh hiệu đơn giản là “Đức Trinh nữ” kể cả lúc họ tôn kính người Từ mẫu.

Đức trinh khiết của Đức Maria đã khai mào trong cộng đoàn Kitô hữu sự phổ biến của đời trinh khiết, được ôm ấp bởi những người được Thiên Chúa kêu gọi. Ơn gọi đặc biệt này đạt tới tột đỉnh nơi Đức Kitô, trở thành một kho tàng thiêng liêng vô giá cho Hội thánh hết mọi thời đại, và tìm thấy hứng khởi và khuôn mẫu ở nơi Đức Maria.

4.- Lời khẳng định “Đức Giêsu sinh bởi Trinh nữ Maria” đã hàm ngụ sự hiện diện của một mầu nhiệm siêu việt trong biến cố này, mà riêng chỉ có thể được giải thích thỏa đáng nơi chân lý về Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chân lý nòng cốt này của đức tin Kitô giáo này đã được liên kết chặt chẽ với chân lý về chức làm mẹ Thiên Chúa của Đức Maria : thực vậy, Người là Thân mẫu của Ngôi Lời Nhập thể, Đấng là “ Thiên Chúa bởi Thiên Chúa … Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”.

Tước hiệu “Thân mẫu Thiên Chúa”, đã được Matthêu chứng tỏ qua dạng thức tương đương là “Thân mẫu của Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1, 23) đã được gán cho Đức Maria một cách minh nhiên sau một cuộc suy tư lâu dài kéo dài hai thế kỷ. Chính các Kitô hữu ở thế kỷ thứ III bên Ai-cập đã bắt đầu kêu cầu Đức Maria dưới tước hiệu “Theotokos”, Thân mẫu Thiên Chúa (Đức Mẹ Chúa Trời).

Với tước hiệu này, được vang lên trong nhiều kinh nguyện, Đức Maria đã xuất hiện trong chiều kích đích thực của chức làm mẹ: Người là Thân mẫu của Con Thiên Chúa, Người đã sinh hạ Con Thiên Chúa theo nhân tính, đã dưỡng dục bằng tình hiền mẫu, đã góp phần vào sự trưởng thành nhân bản của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng đã đến để thay đổi thân phận của nhân loại.

5.- Một sự kiện rất có ý nghĩa là kinh nguyện cổ điển nhất dâng lên Đức Maria (Sub tuum praesidium[2]) đã hàm chứa lời cầu: “Théotokos, Thân mẫu Thiên Chúa”. Tước hiệu này không phát xuất từ một cuộc suy tư của các nhà thần học, nhưng từ một sự trực giác đức tin của Dân Thiên Chúa. Những ai đã nhìn nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa thì cũng hướng về Đức Maria như là “Đức Mẹ Chúa Trời” và hy vọng sẽ được sự giúp đỡ uy quyền của Người trong những cơn thử thách của cuộc sống.

Công đồng Ephêsô năm 431 đã xác định tín điều về Thân mẫu Thiên Chúa khi chính thức gán cho Đức Maria tước hiệu “Théotokos”, nhắm đến về ngôi vị duy nhất của Đức Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật.

Ba tước hiệu mà trải qua thời gian Hội thánh đã diễn tả niềm tin vào chức làm Mẹ của Đức Maria – “Thân mẫu của Đức Giêsu” , “Mẹ đồng trinh” và “Thân mẫu của Thiên Chúa” – đều bày tỏ rằng chức làm mẹ của Đức Maria gắn liền với mầu nhiệm Nhập thể. Đó là những lời xác tín đạo lý, tuy cũng gắn liền với lòng đạo đức bình dân, đã đóng góp vào sự xác định bản chất đích thật của Đức Kitô.

[1] Đề tài này sẽ được quảng diễn ở các bài 26-29.

[2] Đó là kinh “Chúng con trông cậy Rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời …”. Xem bản dịch mới ở bài 37.

Tác giả Lm. Phan Tấn Thành, OP

 

BÀI 3: DUNG NHAN THÂN MẪU ĐẤNG CỨU THẾ

Trong những thế kỷ đầu tiên, Đức Maria được nhìn trong tương quan với Ngôi Lời Nhập thể, với các tước hiệu “Thân mẫu Đức Giêsu, Thân mẫu Thiên Chúa”. Dần dần các tín hữu để ý đến sự hợp tác của Người vào công trình cứu độ của Đức Kitô; từ đó Người được nhìn nhận như là “Thân mẫu Đấng Cứu chuộc”, “Kẻ đồng thụ nạn”, “Mẹ tinh thần của nhân loại”. Ý nghĩa của những đề tài này sẽ được khai triển trong các bài 47-50.

1.- Khi nói rằng “Đức Trinh nữ Maria được nhìn nhận và tôn kính như là Thân mẫu Thiên Chúa , Thân mẫu Đấng Cứu thế.” (HT 53), Công đồng đã muốn chúng ta chú ý tới mối liên hệ giữa chức làm mẹ của Đức Maria  với ơn Cứu độ.

Sau khi đã ý thức  vai trò làm mẹ của Đức Maria, – đã được đạo lý và phụng tự của các thế kỷ đầu tiên tôn kính như là Mẹ trinh khiết của Đức Giêsu Kitô và là Mẹ của Thiên Chúa -, sang thời Trung cổ lòng đạo đức và suy tư thần học của Hội thánh đã đào sâu sự cộng tác của Đức Maria vào công trình của Chúa Cứu thế.

Có thể giải thích lý do của sự chậm trễ này ở chỗ các Giáo phụ và các Công đồng đầu tiên của Hội thánh chú trọng tới mầu nhiệm về bản thể của Đức Kitô  cho nên đã bỏ qua những khía cạnh khác của tín điều. Dần dần  chân  lý mạc khải mới có thể được phát biểu với tất cả nội dung phong phú của nó. Trải qua các thế kỷ, thần học về Đức Maria (Thánh mẫu học) luôn luôn hướng về thần học về Đức Kitô (Kitô học). Chân lý về Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa được  Công đồng Êphêsô công bố nhằm khẳng định một ngôi vị duy nhất  của Đức Kitô. Một điều tương tự  như vậy đã xảy ra khi đào sâu sự hiện diện của Đức Maria trong chương trình cứu độ.

2.- Vào  cuối thế kỷ thứ II, thánh Irênêô, môn đệ của ông Pôlicapô, đã nêu bật sự đóng góp của Đức Maria vào công trình cứu chuộc. Thánh Irênêô đã hiểu biết giá trị của sự ưng thuận của Đức Maria vào lúc Truyền tin, khi ông nhận thấy sự vâng lời và sự tín thác của Trinh nữ Maria vào sứ điệp  truyền tin như là phản chứng hoàn toàn với sự bất tuân và bất tín của bà Evà, mang lại hiệu quả may lành cho số phận nhân loại. Thật vậy,  cũng như bà Evà đã gây ra sự chết thì Đức Maria với lời “xin vâng” đã trở thành “nguyên nhân cứu rỗi” cho chính mình và cho tất cả nhân loại (xc. Chống lại các lạc giáo 3.22,4). Tuy nhiên đây chỉ là một ý kiến chưa được các giáo phụ khác khai triển.

Vào cuối thế kỷ thứ X, đạo lý  này được phát biểu một cách có hệ thống lần đầu tiên trong  quyển “Cuộc đời Đức Maria” do một đan sĩ Byzantin tên là Gioan Geometra. Ở đây Đức Maria đã được liên kết với Đức Kitô, theo chương trình của Thiên Chúa,  trong suốt công trình cứu độ, qua việc thông dự vào thập giá và chịu đau khổ vì phần rỗi của chúng ta. Người đã kết hiệp với Đức Kitô “trong hết mọi hành động, thái độ và ý muốn”. Đức Maria đã kết hợp vào công trình cứu độ của Đức Giêsu bằng tình yêu của một bà mẹ, một tình yêu được ân sủng thúc đẩy và tăng thêm sức mạnh siêu việt: người không có mê đắm thì lại tỏ ra động lòng trắc ẩn  hơn cả.

3.- Bên Tây phương, Thánh Bênađô (qua đời năm 1153), đã hướng về Đức Maria  và chú giải cảnh dâng hiến Đức Giêsu trong đền thờ như sau: “Thánh Trinh nữ ơi, xin hãy dâng Con của Người, xin hãy dâng tiến cho Thiên Chúa  hoa trái của lòng mình. Vì sự hòa giải của chúng con xin hãy dâng lên hy lễ thánh thiện đẹp lòng  Chúa, để cho chúng con được hòa giải với tất cả mọi người” (Bài giảng 3 nhân lễ Thanh tẩy, số 2)

Một đồ đệ và bạn thân của thánh Bênađô, ông Arnalđô Chartres, đã nêu bật sự dâng hiến của Đức Maria trong hy lễ núi Calvariô. Ông ta đã phân biệt ở nơi thập giá “hai bàn thờ: một bàn thờ ở trong trái tim của Đức Maria, một bàn thờ ở nơi thân xác của Đức Kitô. Đức Kitô  đã hiến tế xác của mình còn Đức Maria  đã hiến tế hồn của mình”. Đức Maria đã hiến tế trong tinh thần qua việc kết hiệp sâu sắc với Đức Kitô và khẩn cầu ơn cứu rỗi cho thế giới : “Điều mà bà mẹ kêu xin thì Con chuẩn y và Cha đã trao ban” (Bảy lời của Chúa trên Thập giá).

Từ đó trở đi, các tác giả đã trình bày đạo lý về sự cộng tác đặc biệt của Đức Maria  vào hy lễ cứu chuộc.

  1. Đồng thời, đề tài về Đức Maria “đồng thụ nạn” đã được phát triển trong phụng tự và lòng đạo đức bình dân, đặc biệt qua những bức tượng vẽ Đức Maria chịu đau khổ. Sự tham dự của Đức Maria vào bi kịch thập giá đã biến cho biến cố này trở thành hết sức đậm tình người và giúp cho các tín hữu đi sâu  vào mầu nhiệm: sự đồng khổ của bà mẹ giúp hiểu biết thêm cuộc khổ hình của Người Con.

Với việc tham dự vào công trình cứu chuộc của Đức Kitô, Đức Maria được nhìn nhận như là bà mẹ thiêng liêng của hết mọi người. Bên Đông phương, ông Gioan Geometra thưa với Đức Maria như sau: “Người là mẹ của chúng con”. Khi tạ ơn Đức Maria “vì những khổ hình và đau khổ đã chịu đựng vì chúng con” ông ta đã vạch lên tình hiền mẫu và những đặc trưng của một bà mẹ đối với hết những  kẻ được lãnh nhận ơn cứu chuộc.

Bên Tây phương, đạo lý về tình mẹ thiêng liêng được phát triển với thánh Anselmô khi ông ta quả quyết rằng: “Bà là mẹ… của sự hòa giải và của những người được hòa giải, mẹ của sự cứu độ và những người được cứu độ” (xc. Oratio 52,8).

Đức Maria không ngừng được tôn kính như là Thân mẫu Thiên Chúa, nhưng sự kiện Người trở thành mẹ của chúng ta đã mang lại cho chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa của Người một khuôn mặt mới và  mở ra cho chúng ta con đường kết hiệp thắm thiết hơn với Người.

5.- Chức hiền mẫu của Đức Maria đối với chúng ta không phải chỉ bao gồm một mối liên hệ về tình cảm mà thôi: nhờ những công trạng và nhờ lời cầu bầu, Người đã đóng góp hữu hiệu vào việc chúng ta được  sinh ra về tinh thần và vào sự tăng trưởng đời sống ơn thánh nơi chúng ta. Vì lý do đó Đức Maria đã được gọi là: “Mẹ của ân sủng”, “Mẹ của sự sống”.

Tước hiệu “Mẹ của sự sống” đã được thánh Grêgôriô Nissênô sử dụng và được ông Guerrico Igny (qua đời năm 1157) giải thích như sau: “Người là Mẹ của Sự Sống nhờ đó tất cả mọi người được sống: khi sinh ra Sự Sống này, thì một cách nào đó Người đã sinh hết những người sẽ được sống. Duy chỉ một người đã được sinh ra, nhưng tất cả chúng ta đã được tái sinh” (In  Assumptione I,2).

Một bản văn thuộc thế kỷ thứ XIII, mang tựa là “Mariale”, đã dùng một hình ảnh rất táo bạo khi gọi việc tái sinh chúng ta là “một cuộc sinh đẻ đau đớn” trên núi Calvariô, nhờ đó  “Người trở thành bà mẹ tinh thần của tất cả nhân loại”; thật vậy “trong lòng dạ trinh trắng của mình Người đã thụ thai, bằng sự đồng khổ nạn, tất cả các con cái của Hội thánh”

6.- Công đồng Vaticano II, sau khi đã khẳng định rằng Đức Maria “đã cộng tác một cách hết sức đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu chuộc…”, đã kết luận như sau: “vì thế mà đối với chúng ta Người đã trở thành bà mẹ trong hệ trật ân sủng” (HT 61) và như  vậy, công đồng đã xác nhận  tâm tình của Hội thánh nhìn Đức Maria bên cạnh Con mình như là bà Mẹ tinh thần của toàn thể nhân loại.

Đức Maria là mẹ của chúng ta:  chân lý đầy an ủi này, – được Hội thánh  trình bày càng ngày càng rõ rệt và sâu đậm -, đã và còn nâng đỡ đời sống thiêng liêng của tất cả chúng ta và khích lệ chúng ta hãy tin tưởng và hy vọng kể cả những lúc đau khổ.

Tác giả Lm. Phan Tấn Thành, OP

BÀI 4, 5, 6

BÀI 4 : ĐỨC MARIA TRONG KINH THÁNH VÀ TRONG SUY TƯ THẦN HỌC

Đức Thánh Cha ôn lại sự tiến triển đạo lý về Thánh-mẫu-học. Dựa trên những dữ kiện căn bản của Tân ước, ngành này đã đào sâu thêm những chân lý liên quan đến bản thân và sứ mạng của Đức Maria, điển hình qua việc tuyên bố hai tín điều “Vô nhiễm nguyên tội” và “Hồn xác lên trời”. Đừng kể sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, một nhân tố quan trọng đóng góp vào sự phát triển của Thánh-mẫu-học là lòng đạo đức bình dân, phát biểu cảm quan đức tin của Dân Chúa.

 

1.- Trong những bài trước, chúng ta đã thấy rằng đạo lý về chức làm mẹ của Đức Maria từ  công thức đầu tiên  “Thân mẫu của Đức Giêsu” dần dần bước sang công thức “Thân mẫu của Thiên Chúa” hoàn bị hơn, cho tới những khẳng định về bà mẹ tham gia vào việc cứu độ nhânloại.

Đối với các khía cạnh khác của đạo lý về Đức Maria  cũng cần phải chờ nhiều thế kỷ thì mới có thể đạt tới sự xác định  minh nhiên về các chân lý mạc khải liên quan tới Người. Những trường hợp điển hình của chặng đường đức tin nhằm khám phá ra sâu xa hơn chức phận của Đức Maria trong lịch sử cứu độ là hai tín điều: Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội và Hồn xác lên trời, đã được hai vị tiền nhiệm của tôi tuyên bố, đó là Đức Piô IX năm 1854, và Đức Piô thứ XII nhân dịp năm thánh 1950[1].

Thánh-mẫu-học là một môn thần học độc đáo: trong ngành này lòng mộ mến Đức Maria của Dân Kitô giáo  lắm lần đã trực giác vài khía cạnh của mầu nhiệm về Đức Trinh nữ trước khi các nhà thần học và các vị mục tử chú ý  tới.

  1. Trước hết, chúng ta phải nhìn nhận rằng các sách Phúc âm cung cấp rất ít dữ kiện về thân thế và cuộc đời Đức Maria. Dĩ nhiên là chúng ta ước mong có nhiều chi tiết dồi dào hơn để giúp  hiểu rõ hơn về người Thân mẫu của Đức Giêsu .

Lòng khao khát đó coi như cũng không được thỏa mãn khi bước sang các tác phẩm khác của Tân Ước, bởi vì ở đây cũng chẳng thấy phát triển đạo lý rõ rệt về Đức Maria. Các thư của Thánh Phaolô trình bày cho chúng ta một tư tưởng rất là phong phú về Đức Kitô  và về sự nghiệp của Ngài, nhưng chỉ giới hạn vào một đoạn súc tích rằng Thiên Chúa đã sai Con của mình đến, “sinh bởi một người nữ” (Gl 4,4).

Về gia đình của Đức Maria  chúng ta cũng thấy hầu như không có gì. Đừng kể những trình thuật về thời thơ ấu,  trong Phúc âm nhất lãm chúng ta chỉ thấy có hai lần nhắc  tới Đức Maria: một lần khi nói tới mưu toan của các “anh em” nghĩa là những bà con muốn dẫn Đức Giêsu về lại Nazarét (xc. Mc 3, 21; Mt 12, 48); một lần khác, khi  đáp lại lời chúc tụng của một phụ nữ về hạnh của bà mẹ của Đức Giêsu (Lc 11, 27).

Tuy nhiên, ông Luca trong Phúc âm thời thơ ấu,  – với những chuyện Truyền tin, Thăm viếng, Sinh hạ Đức Giêsu, Tiến dâng Hài nhi trong đền thờ, và gặp lại Người giữa các thầy dạy lúc lên 12 tuổi – , thì không những đã cung cấp cho chúng ta một vài dữ kiện quan trọng, mà còn trình bày cho chúng ta một thứ “tiền thánh mẫu học” hết sức hữu ích. Các dữ kiện của ông Luca đã được gián tiếp bổ túc do ông Matthêu khi thuật lại việc truyền tin cho thánh Giuse (1,18-25),  tuy chỉ liên quan tới việc thụ thai trinh khiết của Đức Giêsu mà thôi.

Hơn nữa, Phúc âm theo ông Gioan đã đào sâu  giá trị lịch sử cứu rỗi của vai trò Thân mẫu Đức Giêsu,  khi ghi nhận sự hiện diện của bà vào lúc bắt đầu và kết thúc cuộc đời công khai của Chúa. Sự can dự của Đức Maria ở bên cạnh Thánh giá mang một tầm ý nghĩa đặc biệt, khi mà Người lãnh nhận từ Con của mình đang hấp hối chức vụ làm mẹ của người môn đệ dấu yêu, và qua người đó, làm mẹ tất cả các Kitô hữu (xc Ga 1, 12 và Ga 19, 25-27). Sau hết, Tông đồ công vụ đã nhắc tới đích danh Thân mẫu của Đức Giêsu ở giữa các phụ nữ của cộng đoàn tiên khởi vào những ngày chờ đón lễ  Ngũ tuần (x. Cv 1, 14).

Ngược lại, chúng ta không biết gì về cuộc đời của Đức Maria sau biến cố Ngũ tuần cũng như về ngày giờ và hoàn cảnh tạ thế, bởi vì  không có những chứng tích của Tân ước hay của những nguồn sử liệu chắc chắn. Chúng ta chỉ có thể giả thiết rằng Người tiếp tục sống với tông đồ Gioan và theo sát sự phát triển của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi.

3.- Những dữ kiện ít ỏi về cuộc đời dương thế của Đức Maria đã được bù lại bằng phẩm tính và sự phong phú thần học  của chúng, mà khoa chú giải Kinh thánh hiện đại đã vạch ra.

Mặt khác, chúng ta cần phải nhớ lại rằng  viễn tượng của các tác giả Phúc âm hoàn toàn tập trung vào Chúa Kitô và chỉ nhắc tới  bà Mẹ trong tầm mức  có liên hệ tới việc loan báo Tin mừng của Người Con. Như Thánh Ambrosiô đã ghi nhận, khi trình bày mầu nhiệm Nhập thể, thánh sử “đã không cần đi tìm những chứng cớ nào khác về Đức trinh khiết của Đức Maria, vì không muốn tỏ ra rằng mình lo bảo vệ Đức Trinh nữ hơn là  công bố một mầu nhiệm” (Expositio in Lucam, 2, 6).

Trong việc này chúng ta có thể nhận ra một ý định của Chúa Thánh Thần. Người muốn gợi lên trong Hội thánh một nỗ lực truy tầm luôn đặt trung tâm điểm nơi mầu nhiệm của Đức Kitô, không tản mạn về những chi tiết của cuộc đời  Đức Maria  nhưng nhằm khám phá ra vai trò của Mẹ trong công trình cứu chuộc, sự thánh thiện bản thân và chức vụ làm mẹ trong đời sống các Kitô hữu.

4.- Khi hướng dẫn nỗ lực truy tầm của Hội thánh, Chúa Thánh Thần cũng đòi hỏi Hội thánh hãy thu nhận những tâm tình giống như Đức Maria. Khi kể lại cuộc sinh hạ Đức Giêsu, ông Luca ghi nhận rằng thân mẫu của Người đã gìn giữ tất cả những điều đó, “chiêm niệm ở trong tâm hồn” (2,19), nghĩa là cố gắng “thu thập đối chiếu” (symballousa) với  cái nhìn sâu sắc tất cả những biến cố mà Mẹ đã trở thành một chứng nhân ưu tuyển.

Một cách tương tự như vậy, dân Thiên Chúa cũng được Chúa Thánh Thần thúc đẩy để hiểu biết sâu xa tất cả những gì đã được nói về Đức Maria, hầu tiến triển trong việc hiểu biết sứ mạng của Người đã được liên kết mật thiết với mầu nhiệm của Chúa Kitô.

Trong việc phát triển Thánh-mẫu-học, Dân Chúa đã đóng một vai trò hết sức đặc biệt. Dân  Chúa, qua việc khẳng định và làm chứng đức tin, đã cộng tác vào sự tiến triển đạo lý về Đức Maria. Thánh-mẫu-học không phải chỉ là thành quả của các nhà thần học  tuy dù vai trò của họ không thể nào thiếu trong việc  đào sâu và trình bày sáng suốt những dữ kiện đức tin và cảm nghiệm Kitô giáo .

Lòng tin của những người đơn sơ đã được Đức Giêsu  ca ngợi, vì Người đã nhìn nhận đó như là  sự bày tỏ đường lối diệu kỳ của Cha lân tuất (xc. Mt 11, 25; Lc 10, 21). Lòng tin chất phác đó, trải qua các thế kỷ, vẫn tiếp tục tuyên dương những kỳ công của lịch sử cứu độ, mà các nhà thông thái không thấy.  Lòng tin này, rất hợp điệu với tính đơn sơ của Đức Trinh Nữ, đã góp phần vào việc tiến triển của sự nhận thức về sự thánh thiện bản thân cũng như về giá trị cao siêu trong sứ mạng làm mẹ của Đức Maria.

Mầu nhiệm của Đức Maria thúc đẩy hết mọi người Kitô hữu, trong niềm hiệp thông với Hội thánh, hãy “chiêm niệm trong tâm hồn” điều mà mặc khải Phúc âm đã khẳng định về Thân mẫu Chúa Kitô. Dựa trên luận lý của kinh Magnificat, mỗi người sẽ cảm nghiệm ở nơi mình, theo gương của Đức Maria, tình yêu của Thiên Chúa và sẽ khám phá qua những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa Ba Ngôi đã thực hiện nơi Đấng “đầy ơn phúc” một dấu hiệu của tình thương âu yếm của Thiên Chúa đối với con người.

BÀI 5 : ĐỨC MARIA  TRONG CẢM NGHIỆM THIÊNG LIÊNG CỦA HỘI THÁNH

Trong bài trước, Đức Thánh Cha trình bày sự tiến triển của đạo lý về Đức Maria trải qua thời đại. Sự tiến triển này không phải chỉ là kết quả của những suy tư thần học, nhưng còn được thúc đẩy bởi lòng đạo đức của các tín hữu. Trong bài hôm nay, Đức Thánh Cha điểm qua vài hình thức tôn kính Mẹ Maria được phát triển qua các thời đại: kinh nguyện, nghệ thuật, linh đạo, thánh điện.

 

1.- Qua những bài huấn giáo vừa rồi, chúng ta đã theo dõi sự tiến triển của những suy tư của cộng đoàn Kitô hữu từ buổi đầu về khuôn mặt và vai trò của Đức Trinh nữ trong lịch sử cứu độ. Lần này chúng ta sẽ suy nghĩ về cảm nghiệm  Hội thánh về Đức Maria.

Sự tiến triển về suy tư thần học về Đức Maria và về lòng tôn kính Đức Trinh nữ dọc theo các thế kỷ đã làm thêm rõ nét  khuôn mặt Maria của Hội thánh. Dĩ nhiên Đức Trinh nữ hoàn toàn quy hướng về  Đức Kitô, nền tảng của đức tin và của cảm nghiệm Hội thánh, và dẫn về Đức Kitô. Tuy vậy, vì vâng lệnh Đức Giêsu, Đấng đã dành cho Thân mẫu của mình một vai trò rất  đặc biệt trong nhiệm cục cứu độ, các Kitô hữu  cũng đã tôn kính, yêu mến và cầu khẩn Đức Maria  hết sức đặc biệt và chân tình. Họ đã dành cho Người một vị trí nổi bật trong đức tin và trong lòng đạo, nhận ra nơi Người một con đường ưu tuyển dẫn tới Đức Kitô, Đấng trung gian tuyệt đỉnh.

Do đó chiều kích Maria của Hội thánh đã tạo thành một yếu tố không thể chối được  của cảm nghiệm dân Kitô hữu. Chiều  kích này được bộc lộ qua nhiều hình thức phát biểu của đời sống các tín hữu, chứng tỏ  vị trí mà Đức Maria đã chiếm được trong tâm hồn của họ. Đây không phải là một thứ tình cảm hời hợt, nhưng là một  mối dây thân tình sâu đậm và có ý thức, đâm rễ sâu trong đức tin, và thúc đẩy các Kitô hữu hôm qua cũng như hôm nay năng chạy đến cùng Đức Maria,  ngõ hầu kết hiệp chặt chẽ hơn với Chúa Kitô.

2.- Từ  sau kinh nguyện cổ điển nhất được xuất phát bên Ai cập bởi các cộng đoàn Kitô hữu vào thế kỷ thứ III để khẩn nài “Đức Mẹ Chúa Trời” che chở trong cơn gian nan[2], rất  nhiều lời kinh khẩn nài đã được các Kitô hữu  dâng lên Đấng mà họ tin là rất quyền thế để chuyển cầu với Chúa.

Ngày nay, kinh nguyện phổ thông hơn cả là kinh Kính mừng Maria, với phần thứ nhất gồm bởi những lời trích từ Phúc âm(xc. Lc 1, 28.42).  Các Kitô hữu đã được dạy để đọc kinh này ở trong nhà, ngay từ  thuở ấu thơ, và ra như  đón nhận một món quà quí báu cần phải gìn giữ suốt đời. Kinh Kính mừng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong kinh Mân côi, giúp cho nhiều tín hữu đi vào việc cầu nguyện chiêm niệm các mầu nhiệm Phúc âm, và hàn huyên thân mật với Thân mẫu  Đức Giêsu. Ngay từ thời Trung cổ, kinh Kính mừng là kinh nguyện  phổ thông nhất của hết mọi tín hữu kêu xin Đức Thánh Mẫu  đồng hành và chở che họ trong cuôc sống hàng ngày (xc. tông huấn Marialis cultus, số 42-55).

Ngoài ra, các Kitô hữu  còn bày tỏ lòng mộ mến Đức Maria bằng cách gia tăng những hình thức tôn kính khác: các thánh thi, các kinh nguyện, các bài thơ, dù chất phác hay tài nghệ, đều chứa đựng  mối tình đối với Người mà Chúa Giêsu trên Thập giá đã ban cho nhân loại làm mẹ. Trong số đó, một vài kinh chẳng hạn như là thánh thi “Akatistos” và kinh “Lạy Nữ Vương” đã ghi dấu sâu đậm trên đời sống Đức tin của các tín hữu[3].

Lòng tôn sùng Đức Maria còn được trau dồi bởi những tác phẩm nghệ thuật bên Đông phương cũng như Tây phương, đưa biết bao thế hệ đến trầm trồ vẻ đẹp tinh thần của Đức Maria. Các họa sĩ, điêu khắc gia, nhạc sĩ và thi sĩ đã để lại nhiều kiệt tác làm nổi bật lên những khía cạnh khác nhau của vẻ cao trọng của Đức Trinh nữ, và giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa và giá trị của sự đóng góp của Người vào công trình cứu chuộc.

Nghệ thuật Kitô giáo đã nhìn thấy nơi Đức Maria sự thể hiện một nhân loại mới, đáp ứng với dự án của Thiên Chúa, do đó trở thành một dấu chỉ cao vời của niềm hy vọng cho toàn thể nhân loại.

3.- Những Kitô hữu đã nhận được một ơn gọi tận hiến đặc biệt thì lại càng hiểu rõ sứ điệp đó hơn nữa. Thực vậy, trong các dòng tu, trong các hiệp hội tận hiến, Đức Maria đã được tôn kính một cách đặc biệt. Rất nhiều dòng tu, nhất là các dòng nữ – tuy không phải chỉ có những  dòng nữ -,  đã lấy một tước hiệu của Đức Maria làm danh xưng. Dù sao, bên trên những hình thức bề ngoài, linh đạo của nhiều dòng tu cũng như của nhiều phong trào – một số không nhỏ mang tính cách Maria -, đã nêu bật mối dây liên hệ đặc biệt đối với Đức Maria, nhằm bảo đảm cho  đặc sủng được sống trung thực và toàn vẹn.

Sự quy hướng về Đức Maria trong cuộc đời của những kẻ được Chúa Thánh Thần ưu tuyển cũng đã phát triển chiều kích huyền nhiệm, cho thấy rằng người Kitô hữu có thể cảm nghiệm được một cách sâu đậm sự can thiệp của Đức Maria.

Sự quy hướng về Đức Maria đã liên kết không những là những Kitô hữu đã dấn thân phục vụ Chúa, mà cả những tín hữu với lòng tin chất phác và thậm chí những người  “xa đạo”; đối với những người này đôi khi lòng tôn kính Đức Maria là mối dây duy nhất còn ràng buộc họ với Hội thánh. Một dấu chỉ biểu lộ tâm tình chung của các tín hữu đối với Đức Maria là những cuộc hành hương về các thánh điện kính Đức Maria, thu hút rất nhiều đoàn tín hữu lũ lượt quanh năm. Một vài đền thánh kính Đức Mẹ rất lừng danh, tựa như  Lourdes, Fatima, Lorêtô, Pompêi, Guađalupê, Czestochowa. Còn biết bao nhiêu thánh điện khác chỉ được biết trong một quốc gia hay một địa phương. Trong tất cả các thánh điện ấy, việc kính nhớ Đức Maria thường được gắn liền với một vài biến cố mà Mẹ đã cứu giúp trong quá khứ,  bày tỏ tình âu yếm của Mẹ và mở rộng tâm hồn  đón nhận ơn thánh Chúa.

Những địa điểm cầu khấn Đức Maria là những bằng chứng của tình Chúa lân tuất  đã đến với con người nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria. Những phép lạ chữa bệnh, ăn năn hối cải,  là những dấu chỉ tỏ tường của việc Đức Maria tiếp tục, cùng với Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần,  công tác của một bà mẹ nâng đỡ dìu dắt.

4.- Các đền Thánh mẫu thường trở thành những trung tâm truyền giảng Tin mừng: thực vậy, ngay trong Hội thánh thời nay cũng như trong cộng đoàn đón chờ lễ Ngũ tuần, lời cầu kinh cùng với Đức Maria đã thúc đẩy nhiều Kitô hữu đi hoạt động tông đồ và phục vụ anh chị em. Ở đây tôi muốn đặc biệt nhắc tới  ảnh hưởng của lòng tôn kính Đức Maria đối với việc thực hành  bác ái và những công cuộc từ thiện. Được khuyến khích do sự hiện diện của Đức Maria,  các tín hữu thường cảm thấy nhu cầu muốn dấn thân phục vụ những người nghèo, những người bất hạnh, những người bệnh tật,  hầu có thể trở nên đối với những người bần đinh đó dấu hiệu của sự che chở hiền mẫu của Đức Trinh nữ , một bức hình sống động của lòng Cha lân tuất.

Qua những điều vừa nói trên đây, chúng ta thấy chiều kích  Maria đã thông qua tất cả mọi sinh hoạt  của Hội thánh. Khi quy hướng về Mẹ Maria, thì việc loan truyền Lời Chúa, Phụng vụ, những hình thức biểu lộ đức ái và lòng đạo đức đều tìm thấy cơ hội để được bồi dưỡng và canh tân.

Dân Thiên Chúa, dưới sự hướng dẫn của các vị Chủ chăn, được mời gọi hãy biết phân định qua sự kiện này tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đã thúc đẩy lòng tin  Kitô giáo trên con đường khám phá ra dung nhan của Đức Maria. Chính Chúa Thánh Thần đã thực hiện  những điều kỳ diệu tại những nơi tôn kính Đức Maria. Chính Chúa Thánh Thần khi thúc đẩy Dân Chúa tìm hiểu và yêu mến Đức Maria, thì đang hướng dẫn các tín hữu tìm đến trường của Đức Trinh nữ của kinh Magnificat, ngõ hầu biết tìm đọc những dấu chỉ của Thiên Chúa ở trong lịch sử, và thủ đắc được đức khôn ngoan giúp mỗi người trở thành kẻ kiến tạo  một nhân loại mới.

BÀI 6 : ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỨC MARIA  TRONG ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH

 Đối với Hội thánh, Đức Maria là đấng chuyển cầu cho các tín hữu, đồng thời cũng là mẫu gương của các nhân đức: tin và giữ Lời Chúa, hy vọng, thinh lặng, khiêm tốn và kín đáo, thanh tịnh và dịu hiền, đồng cảm, giao hòa, vui tươi. Đề tài về gương các nhân đức sẽ còn được tiếp tục ở bài 61.

 

1.- Sau khi đã suy nghĩ về chiều kích Maria của đời sống Hội thánh, bây giờ chúng ta hãy nêu bật kho tàng thiêng liêng dồi dào mà Đức Maria đã thông chuyển cho Hội thánh bằng mẫu gương và sự chuyển cầu của mình.

Trước hết, chúng tôi muốn dừng lại để nghiên cứu vắn tắt một vài khía cạnh có ý nghĩa của bản thân Đức Maria, cống hiến cho mỗi tín hữu những hướng dẫn quí giá để đón nhận và thực hiện ơn gọi của mình.

Đức Maria đã đi trước chúng ta trên con đường đức tin: khi tin vào sứ điệp của thiên sứ,  Người đã đón tiếp mầu nhiệm Nhập thể trước hết mọi người và một cách hoàn hảo hơn bất cứ ai khác (xc. Thông điệp Thân mẫu Đấng Cứu thế, số 13). Cuộc hành trình đức tin của Người đã bắt đầu trước khi khởi sự chức vụ làm mẹ Thiên Chúa và còn được phát triển trong suốt cuộc đời dương thế. Đức tin của Người mang tính cách táo bạo: vào lúc truyền tin, Người đã tin vào một điều không thể thực hiện nổi theo sức loài người, và ở Cana đức tin của Người đã thúc đẩy Đức Giêsu thực hiện phép lạ đầu tiên bày tỏ quyền năng thiên sai (xc. Ga 2, 1-5).

Đức Maria giáo dục các Kitô hữu hãy sống đức tin như là một con đường dấn thân, và liên lỉ đòi hỏi tính táo bạo và kiên trì ở hết mọi lứa tuổi và mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

2.- Gắn liền với đức tin là sự ngoan ngoãn làm theo ý Chúa. Khi tin vào Lời của Chúa, Người đã có thể đón tiếp Lời Chúa vào trong cuộc sống của mình; và khi bày tỏ sẵn sàng tuân theo kế hoạch cao cả của Chúa, Người đã chấp nhận tất cả những gì mà Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi mình.

Sự hiện diện của Đức Trinh nữ trong Hội thánh khuyến khích tất cả các Kitô hữu  hãy biết dành ra mỗi ngày lắng nghe Lời của Chúa, ngõ hầu hiểu ra kế hoạch tình thương của Chúa, trong hết mọi cảnh huống của cuộc đời, bằng cách cộng tác trung thành vào việc thực hiện kế hoạch đó.

3.- Nhờ vậy Đức Maria dạy dỗ cộng đoàn các tín hữu hãy nhìn về tương lai với lòng phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Trong kinh nghiệm bản thân của Đức Trinh nữ, đức trông cậy đã được tăng cường nhờ những động lực luôn luôn đổi mới. Ngay từ lúc Truyền tin, Đức Maria đã tập trung nơi Con Thiên Chúa Nhập thể trong  lòng dạ trinh khiết của mình tất cả mọi nỗi chờ mong của dân Israel. Niềm trông đợi của Mẹ đã được kiện toàn trải qua những giai đoạn kế tiếp trong cuộc đời ẩn dật tại Nazarét và thời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Niềm tin lớn lao vào lời của Đức Kitô, Đấng đã tiên báo cuộc sống lại vào ngày thứ ba, đã khiến cho Người không bị lung lay kể cả khi phải đối đầu với bi kịch Thập giá: Người  đã duy trì niềm hy vọng vào việc thành tựu chương trình cứu chuộc; Người đã trông đợi không chút ngần ngừ, – sau những cơn tối tăm của thứ sáu tuần thánh -, hừng đông của ngày sống lại.

Trong con đường cam go trải qua dòng lịch sử, giữa ơn cứu độ “đã lãnh nhận” và “chưa hoàn tựu”, cộng đoàn các tín hữu biết rằng mình có thể tin tưởng nơi sự trợ giúp của “Mẹ nguồn cậy trông”, Đấng đã cảm nghiệm được sự chiến thắng của Đức Kitô  trên các quyền lực sự chết, và thông đạt cho họ một khả năng  luôn mới mẻ để biết chờ đợi tương lai của Thiên Chúa và tín thác nơi những lời Chúa hứa.

4.- Tấm gương của Đức Maria giúp cho Hội thánh biết  quý trọng giá trị của  thinh lặng. Sự thinh lặng của Đức Maria không phải chỉ là nói năng ít lời, nhưng nhất là khả năng khôn ngoan biết nhớ lại và thâu thập – trong một cái nhìn đức tin – tất cả mầu nhiệm của Ngôi Lời Nhập thể và những diễn biến của cuộc đời của Chúa.

Đây chính là sự thinh lặng đón nhận Lời Chúa,  khả năng chiêm ngắm mầu nhiệm của Đức Kitô, mà Đức Maria đã truyền lại cho dân các tín hữu. Trong một thế giới huyên náo và đủ thứ tin tức, chứng tá của Người giúp cho chúng ta  quý trọng một sự thinh lặng phong phú về tinh thần và cổ võ tinh thần chiêm niệm.

Đức Maria làm chứng cho giá trị của một cuộc sống khiêm tốn, ẩn dật. Thường tất cả mọi người đòi hỏi và đôi khi còn yêu sách phải đánh giá cao bản ngã và những tài năng của mình. Ai ai cũng đều thích  trọng vọng và danh giá. Phúc âm nhiều lần nói rằng các Tông đồ cũng mong mỏi được chiếm những chỗ cao trong Nước Chúa, họ tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất, và Chúa Giêsu đã phải dạy cho họ biết sự cần thiết của đức khiêm nhường và sự phục vụ (xc. Mt 18, 1-5; 20, 20-28; Mc 9,30-37; 10, 35-45; Lc 9,46-48; 22,24-27). Ngược lại, Đức Maria không hề ước ao danh dự hay những đặc ân lợi lộc; Người luôn luôn đi tìm cách chu toàn ý Chúa và sống một đời tuân theo kế hoạch của Cha.

Với những ai thường cảm thấy gánh nặng của một cuộc sống xem ra vô nghĩa, Đức Maria cho họ thấy rằng cuộc đời thật là quý giá nếu biết sống cho tình yêu  Đức Kitô và tình yêu anh em mình.

5.- Ngoài ra, Đức Maria còn làm chứng tá cho giá trị của một cuộc đời thanh tịnh và đầy ưu ái đối với hết mọi người. Vẻ đẹp của linh hồn Người, được trao hiến tất cả cho Thiên Chúa, đã thành đối tượng ngưỡng mộ cho tất cả các Kitô hữu. Nơi Đức Maria, cộng đoàn Kitô hữu luôn luôn thấy lý tưởng của một phụ nữ, đầy tình thương âu yếm, bởi vì đã sống thanh sạch trong tâm hồn và thân xác.

Trong một nền văn hóa thời đại thường coi rẻ đức khiết tịnh và hạ giá giới tính, tách rời nó ra khỏi nhân phẩm  và kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Trinh nữ Maria đã trưng bày cho chúng ta thấy chứng tá của một sự thanh tịnh soi sáng lương tâm và dẫn tới một tình yêu cao cả hơn đối với các tạo vật và đối với Thiên Chúa.

6.- Hơn thế nữa, đối với các Kitô hữu của mọi thời, Đức Maria tỏ ra như là một người đồng cảm với những nỗi khổ đau của nhân loại. Sự thông cảm đó không phải chỉ diễn ra nơi sự chia sẻ cảm thông mà còn biểu lộ qua sự giúp đỡ hữu hiệu và cụ thể đứng trước những khổ đau vật chất và tinh thần  của nhân loại.

Noi theo Đức Maria, Hội thánh được kêu gọi hãy đảm nhận một thái độ tương tự đối với những người nghèo khổ  trên mặt đất. Lòng ân cần của Thân mẫu Đức Kitô đối với những giọt nước mắt, những nỗi khổ và những khó khăn của con người thuộc mọi thời đại, cần thúc đẩy các Kitô hữu, cách riêng vào lúc bước sang ngàn năm thứ ba, hãy tăng gia những dấu chỉ cụ thể hữu hiệu của một tình yêu giúp cho những người bé nhỏ và đau khổ ngày hôm nay có thể tham gia vào những lời hứa và những niềm hy vọng của một thế giới mới, được sinh ra bởi mầu nhiệm Phục sinh.

7.- Tâm tình thảo hiếu sùng mộ của con người đối với Thân mẫu Chúa Kitô đã vượt lên trên những biên cương hữu hình của Hội thánh và thúc đẩy các tâm hồn tiến tới sự hòa giải. Giống như một người mẹ, Đức Maria muốn cho tất cả con cái mình đoàn kết với nhau. Sự hiện diện của Người trong Hội thánh tạo nên một lời mời gọi hãy duy trì sự hòa hợp các tâm hồn giống như  vào hồi khai nguyên của Hội thánh (x. Cv.1,14), và do đó, hãy đi tìm những con đường  dẫn tới sự hợp nhất và hòa bình giữa hết mọi người thiện tâm.

Khi chuyển cầu với Con của mình, Đức Maria nài xin ơn hiệp nhất của toàn thể nhân loại, nhằm tới sự kiến tạo một nền văn minh tình thương, vượt lên trên những khuynh hướng chia rẽ, những cơn cám dỗ hận thù, oán ghét và sự quyến rũ sử dụng bạo lực.

8.- Nụ cười hiền mẫu của Đức Trinh nữ Maria, được rất  nhiều họa phẩm ghi lại, đã bày tỏ sự tràn trề duyên dáng và an bình muốn được thông đạt. Việc biểu lộ tâm hồn bình an góp phần hữu hiệu vào việc giới thiệu một khuôn mặt vui tươi của Hội thánh.

Nhận lời của thiên sứ lúc Truyền tin “hãy vui lên” (khaire: xc Lc 1,28), Đức Maria là người đầu tiên được thông dự vào niềm vui của thời Cứu tinh, – đã được các ngôn sứ báo trước cho “ Thiếu nữ Sion” (xc.Is 12,6; Xp 3,14-15; Zac 9.8),  và Người truyền thụ lại cho nhân loại qua hết mọi thời đại.

Khi kêu cầu Đức Maria như là “ nguyên nhân niềm vui của chúng con”[4], các Kitô hữu khám phá ra nơi Mẹ như kẻ có khả năng thông đạt niềm vui phát sinh từ niềm hy vọng, cho dù ở giữa những thử thách cuộc đời, và kẻ dẫn đưa những ai tín thác vào Mẹ đến niềm vui bất tận.

 

[1] Nên biết là Hội thánh đã tuyên bố  bốn “tín điều” (chân lý mặc khải) về Đức Maria: 1/ Mẹ Thiên Chúa; 2/ Trọn đời đồng trinh; 3/ Vô nhiễm nguyên tội; 4/ Hồn xác lên trời.

Hai tín điều đầu tiên đã thành hình ngay từ các thế kỷ đầu tiên.  Hai tín điều cuối thì được xác nhận vào thế kỷ XIX và XX. Trong các bài huấn giáo sau đây, các tín điều được trình bày dọc theo  cuộc đời Đức Maria: 1/ Thụ thai vô nhiễm (bài 23); 2/ Đồng trinh (bài  26); 3/ Thân mẫu Thiên Chúa (bài 37); 4/ Hồn xác lên trời (bài 54).

[2]  Tức là kinh “Sub tuum praesidium” (Chúng con trông cậy), đã nhắc tới ở  bài 2 ( đoạn 5).

[3]  Đề tài này sẽ được khai triển ở bài 68.

[4] Causa nostrae laetitiae, trong Kinh cầu Đức Bà, quen đọc trong bản dịch tiếng Việt là: “ Đức Bà làm cho chúng con vui mừng”

 Nguồn:giaophankontum.com