Tình yêu không biên giới

Tôi không thể nào quên được những hình ảnh đậm nét trong bộ phim công giáo mang tên “Tình yêu không biên giới”: Những đứa trẻ gầy gò...


Tôi không thể nào quên được những hình ảnh đậm nét trong bộ phim công giáo mang tên “Tình yêu không biên giới”: Những đứa trẻ gầy gò ốm yếu, những người phụ nữ và đàn ông nằm la liệt trên mặt đất với khuôn mặt chẳng ra hình thù một con người. Bộ phim đã lột tả hết cuộc sống nghèo khổ của những người dân ở châu Phi, một vùng đất sỏi đá khắc nghiệt. Mạng sống con người phải luôn luôn đối diện với sự đói khát, dịch bệnh… thậm chỉ cả sự chết chóc thường xuyên. Họ chỉ có thể tồn tại dường như chỉ dựa vào sự trợ giúp lương thực của những tấm lòng hảo tâm. Nhưng hoàn cảnh bi đát đó cũng đã vẽ nên phẩm chất phi thường và cao quý của không ít bác sĩ, y tá, những tình nguyện viên phục vụ nơi đây. Họ đã cùng dân chống chọi với những khó khăn thiếu thốn về mọi mặt, ngay cả khi họ phải mất mạng vì những cuộc xung đột xảy ra… Cuộc sống như thế, nhưng đã không đẩy lui được tinh thần xả thân của họ cho những người dân nơi đây. Động lực nào đã khiến cho những con người vốn có nghề nghiệp, thế giá trong xã hội lại dám xả thân trong những môi trường khắc nghiệt như thế? Dòng suy nghĩ miên man đó làm tôi chợt nhớ đến người cha thân thương của tôi - “Đức Cha Allys”.

Cuộc đời cha cũng trải ra tựa như một tình yêu không biên giới với Đức Kitô. Mối tình đó đã được mở rộng ra với tất cả anh chị em đồng loại.

Một tình yêu nhưng không!

Trên chuyến tàu sứ vụ, cha mang theo gói hành trang của Đức Kitô đến với một vùng đất hoàn toàn xa lạ, không một bóng người thân quen. Cha không đến vì tình cờ nhưng vì một khát khao mãnh liệt, khát khao làm cho ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném xuống mặt đất được cháy bùng lên. Bước đầu sứ vụ, cha đã kiên trì vượt qua những khó khăn về ngôn ngữ, văn hóa để có thể hòa nhập trong một môi trường mới. Cha đã trao ban tất cả mọi sự cha có như một món quà nhưng không cho mảnh đất thân thương này. Cha đến nơi đây để gieo rắc hoa trái của tình yêu cho biết bao con người, giúp họ nhận biết Chúa. Trong 23 năm điều khiển giáo phận Huế, cha được niềm vui đón nhận 37 ngàn dự tòng vào trong lòng Giáo hội. Bàn tay cha đã làm việc không biết mệt mỏi để giúp đỡ tất cả mọi người không ngoại trừ bất kỳ ai. Cha tiếp xúc dễ dàng với mọi hạng người, người Việt Nam cũng như đồng hương của cha. Cha ôn tồn đối với chính quyền Pháp- Việt sẵn sàng giúp đỡ khi cần thiết. Trái tim cha ôm ấp tất cả mọi người không ai mà không được cha lưu tâm hỏi han. Khuôn mặt nhân từ, nụ cười đôn hậu của cha đã sưởi ấm biết bao cõi lòng lạnh vắng. Người ta nói cha là “vị giám mục mỉm cười”. Cha đã làm tất cả những điều đó chỉ vì yêu. Tình yêu đó là sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời cha như câu châm ngôn Giám mục của cha: “Tôi thương mến mọi người”.

Một tình yêu chung thủy!

Vì sao cha đã sẵn sàng từ giã quê hương ra đi? Trong bối cảnh Giáo hội Việt Nam bị bắt bớ, quê hương lâm cảnh chiến tranh loạn lạc, mạng sống của cha cũng thật mong manh, vậy mà không một lần cha có ý nghĩ chạy trốn hay trở về quê hương. Năm 1883, tình hình xứ Huế rất căng thẳng, giáo dân tại các giáo xứ bị sát hạt, cha đã hết mình trong vai trò một vị chủ chăn sát cánh bên đoàn chiên. Cha an ủi nâng đỡ tinh thần các tín hữu, nhờ vậy họ đứng vững trong cơn thử thách. Cha đã sống trọn lý tưởng theo Đức Kitô, không có gì có thể đẩy lui được ý chí và nghị lực của cha như lời của thánh Phao lô “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35-37). Cha đã sống và chết cho tình yêu.

Hội dòng tôi đang sống tại vùng đất trước kia không ít bão tố của thời cuộc chiến tranh, nay đã trở thành vùng đất màu mỡ tốt tươi nhờ sự ươm trồng trong nước mắt và tình yêu của Cha.

Cha ơi! con yêu cha bằng tất cả tấm lòng của con. Nghĩ về cha, con như ước muốn quay ngược lại vòng thời gian để có thể tận mắt nhìn thấy khuôn mặt đôn hậu, hiền từ của cha. Nghĩ về cha, con như được tiếp thêm sức mạnh để quên đi tất cả những khó nhọc, để theo gương cha hiến trọn đời mình cho Đức Kitô. Cha đã để lại cho Hội dòng, cho con một gia sản quý báu đó chính là cuộc đời của cha. Một bản tiểu sử chỉ tóm gọn trong ít trang giấy nhưng chất chứa trong đó biết bao điều tốt đẹp. Nghĩ về cha, một câu hỏi chợt xuất hiện trong con: con phải làm gì cho Hội dòng, cho những ai con có cơ hội phục vụ?

Ước mong trong từng giây phút của cuộc sống con luôn luôn biết thể hiện sức sống tuổi trẻ trong Hội dòng qua sự dấn thân phục vụ để đáp lại tình yêu to lớn của cha. Và cùng bước đi trong nhịp bước của Hội dòng bằng việc cố gắng mỗi ngày theo ước mong của Hội dòng trong Năm Thánh. Như vậy, chúng ta:

Cần Thần khí hướng dẫn và sống theo Thần Khí.

Cần đến một nguồn linh hứng nhiệt tâm, can đảm và sinh lực mới mẻ.

Cần một sự kiên trì trong sứ vụ, để không cảm thấy mệt mỏi chán nản hoặc hoài nghi.

Cám ơn cha đã dựng xây Hội dòng để con có được cơ hội mà không phải bất cứ ai cũng có được. Nguyện xin Thiên Chúa và Mẹ Maria Vô Nhiễm chúc lành cho Hội dòng ngày một hướng theo Thần Khí mà tiến bước.

M. Têrêxa Nguyễn Thị Thủy (Kinh viện ), FMI