Nét đẹp của người nữ

Trong thời đại hôm nay, những người nữ vẫn tiếp tục đóng góp công sức và sự thánh thiện của mình để làm đẹp cho vườn hoa của Giáo hội.


Ngay từ khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người và ban cho con người một trợ tá tương xứng là người nữ. Khi người nữ xuất hiện mọi thứ được trở nên quân bình hơn, nhẹ nhàng và êm ái hơn. Đó chính là món quà, là người trợ tá tương xứng mà Thiên Chúa gửi đến cho người nam. Đó cũng chính là vai trò mà Thiên Chúa đã ban tặng cho người nữ để cùng với người nam hoàn thành công trình sáng tạo của Ngài. Thế nhưng, càng ngày vai trò và vị thế của người nữ dường như bị lu mờ trong xã hội, bởi vì truyền thống trọng nam khinh nữ đang ăn sâu vào tiềm thức của con người qua các thời đại. Tuy vậy, người nữ vẫn luôn gìn giữ những phẩm chất tốt đẹp mà Thiên Chúa tặng ban để xây dựng và đóng góp vào sự phát triển của Giáo hội và xã hội. Vì thế, trong buổi tiếp kiến ngày 8/9/2010 tại đại sảnh Phaolô VI, Đức Giáo hoàng Bênêdictô XVI khẳng định: “Giáo hội của thời đại chúng ta cần những người nữ thánh thiện và can đảm, họ trân trọng những món quà Thiên Chúa đã ban cho họ và đóng góp quý giá và cụ thể cho việc phát triển về tinh thần”

Thật vậy, Giáo hội hôm nay cần đến những người nữ thánh thiện và can đảm. Quả thật, thánh thiện là đặc tính tốt lành, siêu việt của Thiên Chúa. Nhờ ân sủng, con người có thể đạt đến sự thánh thiện, từ bỏ mình và chiến đấu thiêng liêng, đoạn tuyệt với tội lỗi theo gương Đức Kitô. Đó chính là những người nữ quyết tâm bước theo sát Chúa Kitô và hiến thân phục vụ Hội Thánh. Họ can đảm không sợ nguy hiểm đau khổ; dám chấp nhận hi sinh gian khổ, thiệt thòi cá nhân vì lẽ sống cao đẹp. Vì thế, người phụ nữ cần được đánh giá cao và rất cần được trân trọng, bởi những nhân đức và những nét rất độc đáo riêng biệt mà Thiên Chúa đã đặt để nơi người nữ. Bên cạnh đó, người nữ bao giờ cũng là những nhân tố góp phần thành công trong những hoạt động của Giáo hội và xã hội.

Nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể không nhắc đến những gương mặt rất nổi bật đã góp phần làm nên Giáo hội. Một mẫu gương tuyệt vời vượt thời gian đó chính là Mẹ Maria, một người phụ nữ thật diễm phúc, đã cưu mang và sinh hạ Chúa Cứu thế, Mẹ hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời Chúa Giêsu và đồng hành với Giáo hội Tiên khởi. Chính sự thánh thiện và tấm lòng từ mẫu của Mẹ đã đưa dẫn nhiều con cái trở về cùng Thiên Chúa. Mẹ đã nêu gương sáng cho chúng ta trong rất nhiều khía cạnh của cuộc sống để dạy ta sống vâng phục Thiên Chúa cách trọn vẹn và xác tín.

Trải qua thời gian, Giáo hội đã có nhiều người nữ thánh thiện và can đảm, mà Đức Thánh Cha Phanxicô cho rằng đó là “thiên khiếu phụ nữ”. Thánh Monica, một người mẹ đầy kiên nhẫn và thánh thiện, đã đi theo, tìm kiếm và cầu nguyện cho đứa con hoang đàng trở về với Chúa, sau 17 năm trong nước mắt và kinh nguyện thì người con ấy đã trở lại và trở thành một vị thánh lớn đó là Thánh Augustino. Thánh Têrêsa thành Avilla, một tâm hồn đơn sơ nhưng thật vĩ đại, bằng đời sống chiêm niệm gắn bó với Thiên Chúa, mẹ đã cải cách Dòng Cát Minh và sáng lập ra Tu viện Cát Minh cho các nữ tu. Thánh Catarina thành Siena, một dấu chứng của đời sống cầu nguyện và đối thoại với Thiên Chúa, Chúa tỏ cho Catarina biết các Đức Giáo Hoàng cần phải trở về Roma để khởi sự công cuộc chấn hưng đời sống Giáo hội, nên Chị đã viết rất nhiều thư mời Đức Giáo Hoàng từ Avignon ở miền Nam nước Pháp trở về Rôma.

Gần với thời đại chúng ta, còn có thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một tâm hồn đơn sơ, nhỏ bé nhưng đã sống một tình yêu lớn lao đối với Thiên Chúa qua con đường “thơ ấu thiêng liêng”. Thánh Têrêsa thành Calcuta, một người mẹ tuyệt vời của những kẻ nghèo, đã hy sinh phục vụ những con người bần cùng nhất của xã hội với một tình yêu lớn lao dành cho Thiên Chúa. Còn rất nhiều vị thánh nữ khác nữa, mỗi người mỗi vẻ, nhưng những vị thánh ấy đã làm cho Giáo hội thật sống động và rực rỡ bởi chính đời sống của các Ngài.

Trong thời đại hôm nay, những người nữ vẫn tiếp tục đóng góp công sức và sự thánh thiện của mình để làm đẹp cho vườn hoa của Giáo hội. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Phụ nữ ở bất cứ thời đại nào, quốc gia nào, dân tộc nào cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc sáng tạo, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc”. Quả thật, Thiên Chúa đặt để nơi người nữ những đức tính rất tuyệt diệu, từ sự dịu dàng, dễ mến đến nhân đức nhịn nhục, hy sinh, rồi biết chịu thương chịu khó… Tất cả đều hoà quyện nơi người phụ nữ và làm cho người nữ trở nên đẹp. Chung quy lại, đó chính là cái đẹp tuyệt vời mà ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã tạo nên, cái đẹp của lòng khiêm tốn chân thật, cái đẹp của sự hoàn thành trách nhiệm, cái đẹp của sự tận tâm chu đáo và tất cả điều đó đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Đó chính là món quà Thiên Chúa ban, vì thế, người nữ cần thể hiện cung cách sống cho phù hợp và đóng góp những giá trị tốt đẹp cho nhân loại, để tiếp tục công trình sáng tạo của Thiên Chúa ngày càng trở nên hoàn hảo hơn.

Thật vậy, trải qua các thời đại, người nữ vẫn nỗ lực chu toàn bổn phận của mình và càng ngày càng thể hiện nét độc đáo ấy cho các thế hệ. Quả thật, vẻ đẹp của người phụ nữ “không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa; nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ mị, hiền hoà: đó chính là điều quý giá trước mặt Thiên Chúa” (x. 1 Pr 3,3-4). Đó chính là nét duyên dáng, là sự thánh thiện tiềm ẩn bên trong và được bộc lộ ra bên ngoài qua cách sống và hoạt động của người nữ. Nét thánh thiện ấy được tìm thấy nơi những người nữ tu lớn tuổi đang chuyên chăm cầu nguyện, nơi những người nữ tu trẻ tuổi đang phục vụ trên cánh đồng sứ vụ, nơi những góc phố, thôn quê. Sự thánh thiện và can đảm đó, còn được những người nữ thánh hiến đem đến với những con người nghèo khổ, nơi những sinh viên, học sinh trên ghế nhà trường, nơi những trẻ thơ đang từng ngày khôn lớn. Những con người hy sinh âm thầm ấy lại gieo rắc niềm hy vọng lớn lao cho cuộc sống nhân loại này. Đôi khi, người ta quên đi sự hiện diện của họ, nhưng không vì thế mà người nữ tu ấy từ bỏ cuộc sống của mình nhưng vẫn tiếp tục theo đuổi những giá trị đích thực và mang lại hạnh phúc cho người khác.

Thế nhưng, trong xã hội hôm nay, “người ta đã xem nhẹ phẩm giá của người phụ nữ, bỏ qua mọi quyền hạn của họ, gạt họ ra ngoài lề xã hội, thậm chí biến họ thành nô lệ. Nhân loại đã mắc một món nợ khổng lồ vì truyền thống trọng nam khinh nữ[1]. Chính não trạng đó đã hạ thấp nhân phẩm người phụ nữ và không nhận ra vai trò của họ trong xã hội. Chính vì thế, những cuộc đấu tranh của người nữ đòi quyền bình đẳng, quyền tôn trọng và quyền sống đúng phẩm giá của mình đã diễn ra trong xã hội. Nhờ thế, mà vị thế của người nữ được tôn trọng và những giá trị tốt đẹp của họ được nhìn nhận và vinh danh. Từng bước, người nữ bắt đầu có chỗ đứng trong xã hội và Giáo hội, nhờ đó, họ đóng góp khả năng của mình để phục vụ xã hội và Giáo hội, như Đức Thánh Cha Phanxico viết: “Hội Thánh nhìn nhận sự đóng góp quan trọng của Phụ nữ đối với xã hội, bởi sự nhạy cảm, trực giác và một số khả năng của họ, là những gì mà phụ nữ thường vượt trổi hơn nam giới[2].

Bên cạnh đó, những cuộc đấu tranh của nữ giới đòi quyền bình đẳng như phong trào nữ quyền thực sự có tác dụng làm thức tỉnh chế độ gia trưởng kèm theo đó là cơ chế quyền bính, không chỉ trong xã hội mà cả trong Giáo hội. Tuy nhiên, phong trào này có xuất phát điểm rất ý nghĩa là giúp tìm lại phẩm giá đúng đắn của phụ nữ phù hợp với Kinh Thánh, thế nhưng dường như phong trào nữ quyền lại ngày càng trệch hướng khi dần dần, từ việc đấu tranh đòi bình đẳng giới, chuyển sang muốn xóa bỏ hẳn sự khác biệt giới. Sự lệch lạc này thể hiện rõ nét qua các phong trào đồng tính luyến ái và đòi truyền chức linh mục cho phụ nữ. Điều này không phù hợp với ý định của Thiên Chúa ngay từ lúc khai sinh Giáo hội, dẫn đến những sai lạc trong suy nghĩ và hành động gây khó khăn cho Giáo hội.

Thật vậy, xã hội và Giáo hội hôm nay đang nỗ lực đề cao vai trò phụ nữ, và đang cố gắng xóa bỏ những hố cách biệt giữa người nam và người nữ trong các sinh hoạt. Trong thông điệp gởi cho phụ nữ vào ngày 8.12.1965, các nghị phụ Công đồng đã bày tỏ rõ ràng về chính kiến của mình đối với phụ nữ: “Đã đến giờ, và trong giờ đó, ơn gọi của phụ nữ được thực hiện cách trọn vẹn, giờ mà người phụ nữ tạo được ảnh hưởng, sự phát triển và sức mạnh trong xã hội, điều mà cho đến bây giờ họ chưa có được”. Đức Thánh Cha Phanxico đã luôn đề cao giá trị và tài năng của người nữ khi Ngài tuyển chọn và đề cử những người nữ vào các chức vụ cao cấp trong Giáo triều Rôma như đã bổ nhiệm Sr. Simona Brambilla, một nữ tu người Ý thuộc Dòng Truyền giáo Consolata, làm Tổng trưởng của Bộ các Tu hội Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ vào ngày 6/1/2025. Trước đó, năm 2016, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm bà Barbara Jatta làm Giám đốc Bảo tàng Vatican, nơi theo truyền thống do giáo dân lãnh đạo. Đến năm 2022, ngài đã bổ nhiệm Sr. Raffaella Petrini làm Tổng thư ký của Phủ Thống đốc, một vai trò thường do một Giám mục đảm nhiệm.

Quả thật, dần dần, người nữ tìm được chỗ đứng cho mình trong xã hội và Giáo hội, họ bắt đầu dấn thân cho lý tưởng và sự nghiệp của mình để góp phần vào sự phát triển của Giáo hội và xã hội. Vì thế, nam giới không còn là “chủ nhân” của nữ giới nhưng là sự bình đẳng, liên đới và cùng nhau bước đi, cùng nhau phát triển. Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ khác nhau, không phải thống trị lẫn nhau nhưng là bổ túc cho nhau để nên hoàn thiện. Chính sự thánh thiện của người nam và người nữ làm cho Giáo hội được thánh thiện, chứ không phải riêng một người nào. Mỗi người có một vị trí và vai trò của mình trong Giáo hội, bởi vì trước mặt Chúa mỗi người đều có giá trị và phẩm giá như nhau. Càng ngày, con người càng ý thức được vai trò của người nam và người nữ, những quan niệm bất bình đẳng đang dần dần biến mất mà thay vào đó là sự nhìn nhận và tôn trọng nhau.

Thế nên, sự thánh thiện và can đảm của người nữ được thể hiện nơi chính phẩm giá và thiên chức mà Thiên Chúa tặng ban. Sự thánh thiện không chỉ thể hiện nơi người nữ tu, mà còn nơi những người đang sống đời sống gia đình, nơi những người già và trẻ thơ, nơi những thiếu nữ cắp sách đến trường. Mỗi người nữ, ở mỗi bậc sống khác nhau đều đóng góp cho sự thánh thiện của Giáo hội trong vai trò và trách nhiệm của mình. Vì vậy, nét độc đáo nơi người nữ không phải là trở nên giống người nam, nhưng là sống và lan toả nét riêng của người nữ. Bên cạnh đó, người nữ tiếp tục sử dụng những tài năng Chúa ban để phục vụ Giáo hội và xã hội theo những cách thế phù hợp. Tuy nhiên, người nữ không phải lúc nào cũng được đánh giá cao hay được tôn trọng xứng đáng với những công việc mình thực hiện. Nhưng không vì thế mà người nữ thoái lui, nhưng đó là cơ hội để người nữ chứng tỏ sự can đảm và mạnh mẽ của mình, giống như các phụ nữ đã đi theo phục vụ Chúa Giêsu và các Tông đồ. Như Victor Hugo đã nói: “Bên cạnh ánh sáng lung linh của các vì sao còn có ánh sáng êm dịu và huyền bí của tâm hồn người phụ nữ”.

Thật thế, trải qua bao thời, với bao khó khăn, gian khổ người phụ nữ vẫn toả sáng bằng tình yêu và sự nhạy cảm với cách cư xử vừa nhẹ nhàng, mềm mỏng, nhưng cũng cương quyết, cứng rắn trong việc giải quyết những vấn đề trong gia đình, trong cuộc sống. Thực tế đã chứng minh, nhiều người vợ đã giúp chồng chiến thắng bệnh tật, chiến thắng chính bản thân và thành đạt trong cuộc sống. Chính sự bao dung, độ lượng và tình yêu chân thành của người mẹ đã giúp con cái sống đức tin, bỏ đường tội lỗi, xa lánh các tệ nạn và trở nên những người có ích cho xã hội, Giáo hội. Thực sự, trong vai trò người vợ, người mẹ, người phụ nữ có một trách nhiệm với gia đình của mình, xây dựng hạnh phúc gia đình, chăm lo giáo dục con cái như ông bà ta ngày xưa vẫn thường hay nói: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”.

Bên cạnh đó, là người nữ sống đời dâng hiến, sự thánh thiện và can đảm đó cần bộc lộ một cách rõ nét hơn, như thánh Phaolo đã nói: “Đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác” (1 Cr 7,34). Chính nhờ đời sống thánh hiến mà người nữ càng sống tròn đầy thiên chức mà Thiên Chúa ban qua việc sống các lời khuyên Phúc Âm, qua sứ mạng mà Hội dòng trao phó và qua chính đời sống cộng đoàn mà người tu sĩ thuộc về. Người nữ tu thánh hiến phải trở nên chứng tá của Chúa ở giữa trần gian qua cách sống và phục vụ để nhờ đó, thế gian nhận biết Chúa và sống yêu thương. Trong Tông huấn “Gaudete et Exultate” của Đức Thánh Cha Phanxicô, ngài nói: “sự thánh thiện không gì hơn là đức ái được sống cách trọn vẹn” và đức ái luôn đi kèm với niềm vui, “con đường nên thánh, như một món quà và nhiệm vụ, là con đường duy nhất của niềm vui hoàn hảo”. Như vậy, người nữ tu phải diễn tả niềm vui có Chúa, thuộc về Chúa và đi theo Chúa để nhờ đó lan toả niềm vui của Chúa trong cung cách phục vụ hằng ngày.

Được làm người nữ là một hồng ân Thiên Chúa tặng ban, vì thế, cần sống và làm chứng cho sự thánh thiện và can đảm- đó là sứ mạng của người nữ. Vì vậy, ở bất cứ đâu và trong hoàn cảnh nào, người nữ cần sống đúng phẩm giá của mình, phục vụ với khả năng và làm phong phú đời sống với những đức tính tốt đẹp mà Thiên Chúa tặng ban cho người nữ.

 M. Matta Thúy Ngọc (Học viện), FMI 


[1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thư gửi phụ nữ, ngày 29/6/1995

[2] Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng Evangelii Gaudium, số 103, Phạm Xuân Khôi dịch.